Page 714 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 714
TƯ TƯỞNG MỚI CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN DÂN
PGS.TS. PHẠM QUỐC SỬ
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
1. Các quan điểm về nhân dân trước Hồ Chí Minh
Trước Hồ Chí Minh, đã có nhiều nhà tư tưởng phương Đông nói về dân
hay nhân dân.
Ở Trung Hoa thời Chiến quốc, Mạnh Tử (372 TCN-289 TCN) nói: “Dân vi
quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh; thị cố đắc hồ kì dân nhi vi thiên tử ” (Dân là
quý, sau mới đến xã tắc/đất đai, còn vua là khinh, cho nên có được lòng dân rồi
mới làm thiên tử - Tận tâm, hạ, bài 14). Đây là tư tưởng rất táo bạo trong thời
quân chủ mà sự chuyên chế đang trở thành xu hướng của thời đại. Mạnh Tử đã
có lý, bởi dân là quan trọng, có dân mới có nước (xã tắc), mà có dân, có nước thì
mới có vua (quân). Đến Tuân Tử (313 TCN - 238 TCN), người đã khơi mào cho
tư tưởng pháp trị ở Trung Hoa thời cổ đại, còn đưa ra một nhận xét rất sắc sảo
về dân và quan hệ giữa vua chúa và chúng dân: “Quân giả chu dã, thứ dân giả
thủy dã, thủy tắc tải chu, thủy tắc phúc chu” (Vua là thuyền, dân là nước, nước
chở thuyền, nước cũng lật thuyền).
Các sách cổ Trung Hoa (Hán thư, Sử ký) từng dẫn một câu nổi tiếng:
“Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên”, có nghĩa là bậc quân
vương lấy dân làm trời, còn dân thì lấy sự ăn làm trời. Chữ “Thiên” (trời) ở đây
có nghĩa là cao hơn hết, quan trọng hơn hết. Câu này trở thành đạo lý cai trị của
những bậc minh quân ở các nước chịu ảnh hưởng bởi văn hoá Trung Hoa.
Những lời trên đều là quan điểm bất hủ về dân, có điểm chung đều coi dân
là thứ nhất, là gốc của nước. Bởi thế, Kinh Thi có câu: “Dân duy bang bản, bản
cố, bang ninh” (Dân là gốc nước, gốc vững, nước yên); còn sách Đại học dạy:
“Đạo đắc chúng tắc đắc quốc, thất chúng tắc thất quốc” (Đường lối được dân
chúng thì được nước, mất dân chúng thì mất nước). Đó cũng là những điều răn
dạy của Thánh hiền và kinh điển Nho giáo, giúp cho người “quân tử” (người cai
trị, tức vua - quan) hiểu đúng về dân để trị dân. Tuy nhiên, những kiến thức ấy
có phần “lạnh lùng”, ít cảm xúc, được xem như kinh nghiệm, công cụ tư tưởng
của thuật “trị người”.
Đến vua chúa và các bậc hiền nhân, tướng lĩnh Việt Nam thời phong kiến,
712