Page 240 - Nghệ thuật trả lời phỏng vấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
P. 240

những quảng trường rộng lớn, xinh đẹp. Trước kia đồi Lênin
                           là một vùng hoang vu, ngày nay ở đó đã mọc lên trường đại

                           học lớn nhất và đẹp nhất trên thế giới và cạnh đó là cả một
                           thị trấn mới.
                              Gần  đây, tôi  đã  đi thăm ba thành phố anh hùng:

                           Lêningrát, Ôđétxa và Xtalingrát. Vì trước kia tôi đã tới thăm
                           nên tôi lại càng nhận thấy rõ những thành tích ở các nơi đó.
                              Trước chiến tranh, trên toàn thế giới chỉ có bốn triệu đảng
                           viên cộng sản. Hiện nay, con số này tăng lên đến 33 triệu.
                              Tôi tin rằng nếu Mác,  Ăngghen và Lênin  được thấy

                           những người của mình thì các vị ấy sẽ rất hài lòng. Các nước
                           xã hội chủ nghĩa hiện nay  đoàn kết trong một phe thống
                           nhất to lớn.

                              Mùa hè năm nay, tôi đã đi thăm mười một nước, đi qua
                           một chặng đường dài 37.700 cây số, nhưng khắp nơi tôi đều
                           cảm thấy như ở nhà, như trong gia đình mình. Điều đó chứng
                           tỏ rằng chúng ta đoàn kết, thống nhất và mạnh mẽ, chứng tỏ
                           rằng chúng ta có đầy đủ lực lượng để đấu tranh chống chiến

                           tranh và củng cố hòa bình.
                              Ví dụ ở Việt Nam một số người trước kia phục Mỹ, nhưng
                           bây giờ họ cũng đã thay đổi ý kiến. Liên Xô đã phóng hai vệ

                           tinh, còn Mỹ thì chưa phóng được vệ tinh nào cả. Chúng tôi
                           rất sung sướng vì Liên Xô tiến nhanh hơn Mỹ.

                           Nói ngày 21/11/1957.
                           Báo Nhân dân, số 1354, ngày 23/11/1957.

                           Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.195-197.





                           238
   235   236   237   238   239   240   241   242   243   244   245