Page 641 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 641

Phần thứ hai: T I NĂNG QUÂN SỰ XUẤT CHÚNG, CỐNG HIẾN ĐẶC BIỆT XUẤT SẮC...


                  lượng phòng không trực thuộc Bộ làm nòng cốt cho toàn dân chống chiến
                  tranh phá hoại của Mỹ.  Đại tướng chỉ  đạo khẩn trương xây dựng Quân

                  chủng Phòng không - Không quân phát triển tổ chức gồm các binh chủng:
                  rađa, tên lửa, pháo cao xạ và không quân. Đồng thời, chỉ đạo nhanh chóng
                  xây dựng lục quân phát triển gồm các binh chủng: pháo binh, tăng thiết

                  giáp, công binh, đặc công, thông tin liên lạc (1965-1968). Việc hình thành
                  các binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân và lục quân
                  đánh dấu bước phát triển về mặt tổ chức, tăng thêm sức mạnh chiến đấu của
                  bộ đội chủ lực, đáp ứng yêu cầu kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

                      Đối với chiến trường, Đại tướng chỉ đạo xây dựng, phát triển lực lượng vũ
                  trang ba thứ quân tại chỗ, đồng thời chỉ đạo các cơ quan, đơn vị đưa gọn
                  từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh hành quân từ miền Bắc vào. Trên cơ sở đó,

                  trong những năm 1965-1966, bộ đội chủ lực được tổ chức thành những binh
                  đoàn cơ động mạnh, gồm các sư đoàn 5, 7, 9 chủ lực (Nam Bộ); các sư đoàn 2, 3
                  chủ lực (Khu 5) và Sư đoàn 1 chủ lực (Tây Nguyên). Bộ đội địa phương được
                  mở rộng và tăng cường. Dân quân, du kích và tự vệ phát triển mạnh và rộng

                  khắp trên các chiến trường. Lực lượng vũ trang ba thứ quân ở miền Nam đã
                  trở thành lực lượng nòng cốt cùng toàn dân đánh bại chiến lược chiến tranh
                  cục bộ của đế quốc Mỹ.

                      Từ năm 1969, trước tình hình đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược Việt Nam
                  hóa chiến tranh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng tập thể Quân ủy Trung
                  ương và Bộ Quốc phòng chỉ  đạo xây dựng, phát triển mạnh lực lượng vũ
                  trang ba thứ quân, trọng tâm là xây dựng, phát triển khối chủ lực cơ động.
                  Năm 1970,  Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Quân  ủy Trung  ương và Bộ

                  Quốc phòng thống nhất quyết  định thành lập Binh đoàn 70 (tương đương
                  quân đoàn) ở nam Quân khu 4 (2/1970). Tiếp đó, ở miền Nam, ta thành lập
                  cơ quan chỉ huy tiền phương của Bộ Tư lệnh Miền, mật danh  Đoàn 301

                  (3/1971), tương đương cấp quân đoàn, đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, chỉ huy các
                  binh đoàn chủ lực cơ động tiêu diệt lớn quân địch ở chiến trường Nam Bộ và
                  cực Nam Trung Bộ.
                      Để tiến lên giành những thắng lợi quyết  định,  Đại tướng, Tổng Tư

                  lệnh Võ Nguyên Giáp đề xuất cần khẩn trương thành lập các quân đoàn
                  chủ lực để phát huy sức mạnh tổng hợp của các sư đoàn, đáp ứng yêu cầu
                  tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng, thực hiện những trận đánh tiêu diệt


                                                                                                   639
   636   637   638   639   640   641   642   643   644   645   646