Page 855 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 855

Phần thứ ba: SÁNG NGỜI TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG


                  (20 - 26/11/1946) đã có tác dụng của một cuộc tổng diễn tập thực sự chuẩn bị
                  cho trận đánh nhiều ngày ở Thủ đô Hà Nội xảy ra sau đó một tháng , được
                                                                                                1
                  đồng chí Võ Nguyên Giáp rất quan tâm theo dõi, từ đó rút ra nhiều kinh
                  nghiệm quý để chỉ đạo cuộc chiến đấu của quân, dân các đô thị sau này.
                      Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thay mặt Bộ Quốc phòng -

                  Tổng Chỉ huy, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã ra mệnh lệnh chỉ đạo lực lượng
                  Vệ quốc đoàn, tự vệ ở các tỉnh Sơn Tây, Hà Đông của Chiến khu 2 tham gia
                  phối hợp đánh địch ở Hà Nội. Ngày 21/12/1946, theo đề đạt của đồng chí Võ
                  Nguyên Giáp, Chiến khu 11 được sáp nhập vào Chiến khu 2, Hà Nội và

                  Nam Định trở thành tiền phương của Chiến khu 2. Ngày 24/12/1946, Sơn
                  Tây, Hà Đông sáp nhập với Hà Nội thành “mặt trận tiền phương số một”
                  của Chiến khu 2. Các  đợt tác chiến  ở Chiến khu 2, Chiến khu 3  đã kìm

                  chân địch trong thành phố, góp phần giữ gìn lực lượng, bảo vệ an toàn các
                  cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ, tạo thời gian chuẩn bị cho cuộc
                  kháng chiến toàn quốc.
                      Một trong những nội dung trọng tâm của xây dựng thế trận chiến tranh

                  nhân dân trên địa bàn Liên khu 3 trong kháng chiến chống thực dân Pháp
                  được Tổng Quân  ủy và  Đại tướng rất quan tâm là xây dựng các làng, xã
                  chiến đấu, khu du kích, căn cứ du kích. Theo đó, các làng kháng chiến vùng

                  đồng bằng sông Hồng đã phát triển từ nhỏ đến lớn, từ từng làng đến liên
                  hoàn nhiều làng (năm 1948, đã có 480 làng kháng chiến); thực sự là căn cứ
                  địa, hậu phương tại chỗ của cấp cơ sở, tạo nên thế trận xen kẽ, bao vây, uy
                  hiếp và là pháo đài ngăn chặn quân địch. Làng, xã chiến đấu còn góp phần
                  bảo vệ quê hương, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, cung cấp

                  sức người, sức của cho tiền tuyến; là cơ sở để xây dựng các khu du kích, căn
                  cứ du kích. Đến năm 1952, các làng, xã chiến đấu, vùng căn cứ du kích đã
                  chiếm hơn một nửa diện tích vùng đồng bằng Bắc Bộ, phát triển thành thế

                  liên hoàn, kéo dài từ Bắc Giang, Bắc Ninh đến vùng ven đường 5, qua Hưng
                  Yên, Hải Dương, Kiến An, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Đông, Sơn
                  Tây... Làng chiến  đấu, khu du kích  ở  đồng bằng nối liền với vùng tự do
                  Thanh - Nghệ - Tĩnh ở phía nam và căn cứ địa Việt Bắc ở phía bắc, hình

                  _______________

                      1. Mấy vấn đề lớn ở Khu Tả Ngạn sông Hồng trong kháng chiến chống Pháp (1945-1955),
                  Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 445.

                                                                                                   853
   850   851   852   853   854   855   856   857   858   859   860