Page 108 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 108

Để thực hiện chủ trương trên đây và với ý định giao cho Bộ

                           Tư lệnh Quân khu 4 chỉ  đạo hoạt  động của Phân khu Trị -
                           Thiên, ngày 4/12, Thường trực Quân ủy đã đề nghị Bộ Chính trị
                           cử  đồng chí Trần Văn Quang vào làm Tư lệnh Quân khu 4,
                           đồng chí Nguyễn Văn Vịnh làm Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất
                           kiêm Phó  Tổng tham mưu trưởng  đảm nhiệm công việc của
                           đồng chí Trần Văn Quang, theo dõi chiến trường miền Nam.

                              Để chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ 12 của Ban Chấp hành
                           Trung  ương (dự  định họp vào cuối tháng 12),  đồng chí Võ
                           Nguyên Giáp được phân công viết dự thảo Nghị quyết của Bộ
                           Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ cách mạng miền Nam để
                           đưa ra  Hội nghị Trung  ương 12. Quá  trình chuẩn bị bản dự
                           thảo, đồng chí Võ Nguyên Giáp nghiên cứu cụ thể kết luận cuối
                           tháng 9 của Bộ Chính trị, kết hợp với nhận định trong các cuộc
                           họp Thường trực Quân ủy Trung ương mấy tháng qua, trong đó

                           có cuộc họp của Thường trực Quân  ủy Trung  ương nghe  Bộ
                           Tổng tham mưu báo  cáo về tình hình chi viện lực lượng cho
                           miền Nam trong những năm 1959-1965  và tình hình các lực
                                                                      1
                           lượng vũ trang miền Nam cuối năm 1965.
                           ___________

                              1. Theo số liệu của Bộ Tổng tham mưu, từ năm 1959 đến đầu năm
                           1965, miền Bắc đã chi viện cho miền Nam tổng số 46.674 cán bộ và chiến
                           sĩ. Cụ thể: năm 1959: 542 người (339 cán bộ); năm 1960: 1.217 người (672
                           cán bộ); năm 1961: 5.021 người (1.693 cán bộ); năm 1962: 7.293 người
                           (1.697 cán bộ); năm 1963: 8.719 người (1.977 cán bộ); năm 1964: 10.670
                           người (1.579 cán bộ);  đầu năm 1965: 13.212 người. Trong tổng số lực
                           lượng nói trên, vào chiến trường B1: 37.587 người, vào B2: 9.087 người.
                              Đến tháng 11/1965, tổng quân số ở miền Nam là 160.000, trong đó bộ
                           đội chủ lực có 18 trung đoàn, 28 tiểu đoàn bộ binh; 1 trung đoàn, 4 tiểu
                           đoàn và 16 đại đội pháo, cối; 6 tiểu đoàn, 10 đại đội cao xạ; 2 tiểu đoàn
                           xe tăng; 3 tiểu đoàn, 7 đại đội công binh; 5 tiểu đoàn, 4 đại đội thông
                           tin; 2 tiểu đoàn, 7 đại đội đặc công; 1 đại đội hóa học; 9 tiểu đoàn vận tải.
                           Bộ đội địa phương có 30 tiểu đoàn, 101 đại đội và 303 trung đội.


                           106
   103   104   105   106   107   108   109   110   111   112   113