Page 30 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 30
phá hoại miền Bắc; 2) Chiến tranh phá hoại của địch ở miền
Bắc không tách rời chiến lược "chiến tranh đặc biệt" ở miền
Nam. Phá hoại miền Bắc kéo dài và kết thúc cùng với "chiến
tranh đặc biệt" ở miền Nam; 3) Chiến tranh phá hoại miền Bắc
là một hình thức chiến tranh hạn chế ở miền Bắc, phối hợp với
"chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam, nó có mục đích, phạm vi,
mức độ hạn chế; 4) Phương tiện tiến hành chiến tranh phá hoại
miền Bắc là không quân, hải quân, đó là hai mặt ưu thế của
địch hơn là dùng lục quân; 5) Phương châm và biện pháp của ta
đối phó với chiến tranh phá hoại của địch là phải toàn diện và
lâu dài. Vấn đề đặt ra là không để chiến tranh phá hoại của
địch lan rộng thành "chiến tranh cục bộ".
Bước sang năm 1965, theo dự kiến của Cục Tình báo, có khả
năng đế quốc Mỹ sẽ đẩy "chiến tranh đặc biệt" lên đỉnh cao ở
miền Nam đồng thời với việc mở rộng chiến tranh phá hoại
miền Bắc, từ những hoạt động phá hoại lẻ tẻ thành cuộc chiến
tranh phá hoại quy mô lớn bằng cả không quân và hải quân.
Nhà Trắng và Lầu Năm Góc vẫn coi chiến tranh phá hoại chỉ là
một biện pháp chiến lược bổ sung chứ không phải là biện pháp
thay thế cho cuộc chiến tranh trên bộ ở miền Nam.
Trong hai ngày 7 và 11/2/1965, lấy cớ quân ta tiến công các
đơn vị Mỹ ở Plâyku và Quy Nhơn, Mỹ cho máy bay đánh phá
"trả đũa" một số nơi ở Khu 4, sau đó từ ngày 13/2, Johnson
quyết định mở rộng đánh phá miền Bắc hòng gây sức ép buộc ta
phải giảm cường độ tiến công ở miền Nam.
Sau khi nghe cơ quan tham mưu báo cáo kết quả các trận
đánh trả máy bay địch ở Đồng Hới, Vĩnh Linh trong hai ngày 10
và 12/2/1965, Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp
triệu tập cuộc họp của Thường trực Quân ủy Trung ương kiểm
điểm việc chỉ đạo đánh địch tập kích bằng không quân và rút
28