Page 11 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 11
là Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam cho đến ngày cơ
quan này hoàn thành nhiệm vụ sau ngày 30/4/1975. Trong cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đồng chí được Trung ương Cục
phân công làm Bí thư Đảng ủy đặc biệt trong Ủy ban quân quản Sài
Gòn. Sau giải phóng, đồng chí được chỉ định làm Chủ tịch Ủy ban
nhân dân rồi Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 1960, suốt 37 năm liên tục đồng chí tham gia Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, trong đó có 25 năm là Ủy viên chính thức.
Sau khi đất nước thống nhất, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
của Đảng, đồng chí được bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị
rồi Ủy viên chính thức từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của
Đảng và giữ trọng trách này suốt 21 năm cho đến khi thôi nhiệm
tháng 12/1997 để làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương.
Về mặt Nhà nước, đồng chí là đại biểu Quốc hội khóa VI, VIII, IX.
Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VIII diễn ra tháng 6/1987, đồng
chí được Quốc hội phê chuẩn giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch
Nhà nước và Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng. Tháng
3/1988, đồng chí được chỉ định làm Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng thay đồng chí Phạm Hùng vừa đột ngột từ trần. Từ tháng
8/1991, đồng chí được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX, đồng chí được Quốc
hội bầu giữ chức Thủ tướng Chính phủ và đảm trách chức vụ này
cho đến khi thôi nhiệm.
Trong cuộc đời cách mạng dài lâu từ thuở thiếu thời cho đến
khi từ giã cõi đời, đồng chí Võ Văn Kiệt đã được giao nhiều trọng
trách, là điển hình của lớp cán bộ trưởng thành từ cơ sở, từ lãnh
đạo cấp xã cho đến khi trở thành người đứng đầu Chính phủ. Ở bất
cứ giai đoạn cách mạng nào, giữ bất cứ cương vị gì, đồng chí đều nỗ
lực hết mình, bộc lộ tài năng chói sáng và để lại dấu ấn khó phai
mờ - dấu ấn Võ Văn Kiệt.
9