Page 200 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 200
năm 1941 đến năm 1945, trên cương vị Ủy viên Tỉnh ủy lâm thời
tỉnh Rạch Giá, đồng chí đã chỉ đạo xây dựng lực lượng cách mạng,
bảo vệ căn cứ địa U Minh trở thành đầu não chỉ huy cách mạng của
các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Căn cứ U Minh còn là nơi huấn luyện
cán bộ, sản xuất vũ khí, chuẩn bị mọi mặt cho khởi nghĩa giành
chính quyền ở Rạch Giá thắng lợi (1945).
Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, khi thực dân Pháp
tái chiếm Nam Bộ, đồng chí Võ Văn Kiệt được cử làm Ủy viên Chính
trị dân quân cách mạng liên tỉnh Tây Nam Bộ. Năm 1950, đồng chí
được điều về tỉnh Bạc Liêu làm Phó Bí thư rồi Bí thư Tỉnh ủy Bạc
Liêu. Với năng lực hoạt động thực tiễn linh hoạt, sáng tạo, dấu chân
của đồng chí Võ Văn Kiệt đã in khắp các chiến khu, bưng biền, trực
tiếp chỉ đạo cuộc chiến đấu của đồng bào Tây Nam Bộ, góp phần vào
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Sau Hiệp định Giơnevơ (1954), đồng chí được Đảng phân công bí
mật ở lại miền Nam, tiếp tục bám đất, bám dân, hoạt động ở vùng
cực Nam của Tổ quốc. Năm 1955, đồng chí được bầu vào làm Ủy viên
Xứ ủy Nam Bộ, Phó Bí thư Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, sát cánh bên
cạnh đồng chí Lê Duẩn, góp phần xây dựng Đề cương cách mạng
miền Nam, làm cơ sở cho phong trào Đồng khởi của nhân dân ta ở
khắp miền Nam. Năm 1959, đồng chí được điều về Khu Sài Gòn -
Gia Định, làm Bí thư Khu ủy T.4 (Sài Gòn - Gia Định) cho đến cuối
năm 1970.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960), đồng
chí được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương
Đảng; là Ủy viên Trung ương Cục miền Nam, đồng chí tiếp tục làm
Bí thư Khu ủy T.4 (Sài Gòn - Gia Định), rồi Bí thư Khu ủy Khu 9
(Khu Tây Nam Bộ). Năm 1972 đồng chí được bầu làm Ủy viên chính
thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III.
Từ năm 1973 đến 1975, đồng chí được điều về công tác ở Trung
ương Cục và là Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam.
Trên cương vị và trọng trách được Đảng giao phó, trong những năm
198