Page 181 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 181
Chương IV: HOẠT ĐỘNG TRONG KHÁNG CHIẾN... 177 178 VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ
Đây cũng là nguyên nhân mất đoàn kết giữa Khu ủy và thắng lợi lớn trong chiến dịch Nguyễn Huệ; với 6 đợt
Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu thời gian trước đó. tiến công cao điểm, từ tháng 4 đến tháng 8-1972, Quân
Khu ủy thống nhất chủ trương chỉ đạo: Tiếp tục khu 9 đã loại khỏi vòng chiến đấu 12.000 tên địch, diệt
xây dựng vùng giải phóng vững mạnh về mọi mặt, 4 chi khu, 2 yếu khu, 6 căn cứ, 916 đồn bốt; giải phóng
thực hiện đầy đủ các chính sách của Mặt trận, tích cực 400 ấp với 80 vạn dân.
mở rộng vùng giải phóng. Đối với vùng tranh chấp, Thắng lợi quan trọng về quân sự đã tạo đà cho việc
Khu ủy chia làm ba loại: tranh chấp mạnh, tranh chấp phát triển, củng cố lực lượng cả ba thứ quân: bộ đội chủ
ngang nhau, tranh chấp yếu. Phương châm chỉ đạo là lực được tăng cường cả số và chất lượng, bộ đội địa
biến vùng tranh chấp mạnh thành vùng giải phóng; phương và dân quân du kích quân số cũng tăng lên từ
biến vùng tranh chấp ngang nhau thành vùng tranh 20 - 50%. Điều quan trọng nhất là từ sau chiến dịch
chấp mạnh; biến vùng tranh chấp yếu, thành vùng này, các đảng bộ địa phương, nhất là ở cơ sở đã bám
tranh chấp ngang nhau. Đối với vùng địch tạm thời được vào dân, bám được địa bàn, tiếp tục phát huy vai
kiểm soát: phát động quần chúng đấu tranh chính trị trò lãnh đạo quần chúng. Bộ đội chủ lực từ chỗ mất thế
làm lỏng thế kìm kẹp của địch, dần dần biến vùng đứng, nay đã trụ vững trên địa bàn chiến lược. Bộ đội
kiểm soát của địch thành vùng giải phóng hoặc vùng địa phương, dân quân du kích bám đất, bám dân phát
tranh chấp mạnh. triển mạnh, hiệp đồng chiến đấu tốt với bộ đội chủ lực.
Nhờ có chủ trương đúng đắn, cán bộ kiên quyết bám Giao thông từ Miền xuống khu, khu xuống các tỉnh, các
cơ sở, đến cuối năm 1971, phong trào Khu 9 hồi phục và đơn vị thông suốt, phục vụ tốt cho việc lãnh đạo, chỉ
phát triển đều, vùng giải phóng được mở rộng. Thế và lực đạo, chỉ huy. Rõ ràng, thế và lực của lực lượng vũ trang
cách mạng của khu từng bước được hồi phục, lực lượng vũ Khu 9 được củng cố và tăng cường mạnh hơn trước; từ
trang được củng cố và tăng cường; mối quan hệ đoàn kết thế bị động, chống đỡ, chuyển sang thế chủ động tiến
giữa Khu ủy với Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu ngày công, đẩy quân địch vào thế chống đỡ, lúng túng, buộc
càng đồng thuận cao trên những vấn đề cơ bản. chúng phải thu hẹp địa bàn về sát thị trấn, thị xã; góp
Với thế và lực mới, trong hai năm 1971-1972, lực phần cùng quân dân cả nước làm phá sản chiến lược
lượng vũ trang Quân khu 9 cùng với nhân dân đồng “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ - ngụy; buộc Mỹ
bằng sông Cửu Long bẻ gãy chiến dịch “càn quét và phải ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại
bình định tô dày, lấp kín U Minh” của địch; giành hòa bình ở Việt Nam (1-1973).