Page 114 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 114

112











                           CỤT TAY MÙ MẮT, ĐÁNH GIẶC VẪN HĂNG




                              Đây là một chuyện Trung Quốc.
                              Đội trưởng Lưu Khuê Kỳ năm nay… tuổi, vào Giải phóng
                           quân đã 7 năm. Trận đầu tiên, bị thương cụt mất tay trái. Về
                           làng  nghỉ  ít  lâu,  Lưu  trở  lại  bộ  đội,  mang  theo  5  người  dân
                           quân. Lần thứ hai, Lưu bị thương, mù mất một mắt. Cấp trên
                           cho giải ngũ, nhưng Lưu nói: “Còn một mắt một tay, tôi vẫn làm
                           cách mạng được, đánh giặc được”.
                              Tháng  7-1947,  trong  trận  Sơn  Đông,  Lưu  cùng  5  chiến  sĩ
                           xung phong, bị vây trong một cái kênh. 6 người chống cự suốt
                           đêm; sáng hôm sau, có viện binh đến, lại cùng nhau xông vào
                           cứ điểm của địch. Trong một trận khác, một mình đồng chí Lưu
                           đã  giết  được  20  tên  địch  và  bắt  sống  17  tên.  Từ  đó,  Lưu  còn
                           đánh nhiều trận, bị thương nhiều lần.
                               Đồng  chí  Lưu  chẳng  những  đánh  giặc  hăng,  mà  còn  có
                           nhiều tính tốt khác: ham học hỏi, thương yêu đồng chí. Tuy tàn
                           tật, song mỗi lần hành quân, đồng chí Lưu vẫn cố gắng mang
                           giúp súng đạn cho những anh em sức yếu. Đến chỗ nghỉ, săn
                           sóc cho anh em nghỉ trước mình.
                              Đồng chí Lưu Khuê Kỳ thường nói với anh em:
                              “Mỗi khi tôi gặp nguy hiểm khó khăn, chỉ nhớ đến Đảng, là
                           tôi lại hăng hái lên và tìm được cách giải quyết mọi vấn đề”.
                                                                            C.B.
                           Báo Nhân Dân, số 32,
                           ngày 15-11-1951, tr.2.
   109   110   111   112   113   114   115   116   117   118   119