Page 610 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 610
ĐẠI TƯỚNG, TỔNG TƯ LỆNH VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT T I NĂNG QUÂN SỰ XUẤT CHÚNG...
2. Chiến dịch Biên giới
Trong hai năm 1948-1949, phong trào chiến tranh du kích đánh phá
bình định của địch, xây dựng lực lượng vũ trang của ta sôi nổi trên các chiến
trường cả nước. Việc củng cố, phát triển bộ đội chủ lực cũng được đẩy mạnh.
Ngày 20/1/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 110-SL phong
hàm cấp tướng cho một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy Quân đội. Võ Nguyên Giáp
được phong quân hàm Đại tướng và cũng là Đại tướng duy nhất trong kháng
chiến chống thực dân Pháp.
Để đáp ứng yêu cầu chuyển kháng chiến sang giai đoạn mới, từ giữa năm
1949, các đại đội độc lập phân tán về các địa phương hỗ trợ chiến tranh du
kích trước kia, nay được lệnh rút về cùng các tiểu đoàn tập trung xây dựng
thành các trung đoàn, đại đoàn chủ lực. Tháng 8/1949, đại đoàn đầu tiên,
“Đại đoàn 308 Quân Tiên phong” được thành lập.
Tháng 6/1950, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch
Biên giới với mục tiêu: Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch; mở
đường giao thông quan trọng với Trung Quốc và các nước dân chủ - đại hậu
phương của ta; mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc.
Ngày 25/7, Đảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch được thành lập. Đại tướng
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp được Thường vụ Trung ương Đảng chỉ định là
Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến dịch. Lực lượng tham
gia chiến dịch gồm phần lớn các đơn vị chủ lực cơ động chiến lược.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: Chiến dịch này chỉ cho đánh thắng, không
cho đánh bại. Người cũng lên đường ra mặt trận để giúp đỡ Bộ Chỉ huy chiến
dịch và động viên bộ đội chiến đấu.
Đầu tháng 8/1950, Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến dịch cùng cơ
quan Bộ Chỉ huy lên đường ra mặt trận. Đến mặt trận nghiên cứu thực địa,
Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát hiện chủ trương tiến công thị xã Cao Bằng
mở màn chiến dịch theo phương án cơ quan Tham mưu đã chuẩn bị trước là
chưa chính xác. Đại tướng triệu tập họp Đảng ủy Mặt trận để bàn lại
phương án tác chiến. Đồng chí nêu ý kiến Cao Bằng là cứ điểm mạnh của
địch, không những có lực lượng đông (2 tiểu đoàn Âu - Phi), có công sự vững
chắc, lại dựa được vào thế hiểm của địa hình nằm giữa hai con sông rộng
(sông Bằng và sông Hiến). Đánh Cao Bằng, quân ta khó giành thắng lợi và
quân chủ lực sẽ bị thương vong nhiều. Mặt khác, đánh Cao Bằng là chưa
608