Page 709 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 709

Phần thứ hai: T I NĂNG QUÂN SỰ XUẤT CHÚNG, CỐNG HIẾN ĐẶC BIỆT XUẤT SẮC...


                  biên chế để phục vụ chiến dịch. Cùng với quân đội, một lực lượng vận tải lớn
                  của Nhà nước gồm trên 1.000 xe ô tô, 32 tàu biển (95.000 tấn phương tiện),

                  130 toa xe lửa (9.000 tấn phương tiện) và nhiều máy bay dân sự cũng được
                  huy động để vận chuyển hàng hoá, vũ khí cơ động bộ đội . Đến giữa tháng
                                                                                   1
                  4/1975, các lực lượng vận tải dân sự cơ bản đã đưa vũ khí trang bị về nơi quy

                  định, bảo đảm kịp thời cho chiến dịch, góp phần vào thắng lợi của cuộc Tổng
                  tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
                  nhất đất nước.
                      Cũng cần nói thêm là trong giai đoạn cuối của cả hai cuộc kháng chiến

                  chống Pháp và chống Mỹ, kẻ địch đã đánh giá sai lầm về việc huy động sức
                  mạnh toàn dân thực hiện công tác hậu cần của ta.  Đại tướng Võ Nguyên
                  Giáp nêu rõ: Trong Đông - Xuân 1953-1954, Navarre và Bộ Tổng Tham mưu

                  quân đội viễn chinh Pháp đánh giá ta không đủ khả năng để bảo đảm hậu
                  cần cho khối chủ lực tác chiến ở Điện Biên Phủ. Trong mùa Xuân năm 1975,
                  cả Mỹ và quân đội Sài Gòn đều đánh giá là ta chưa có đủ khả năng để bảo
                  đảm cho Tổng tiến công và nổi dậy trong năm 1975. Họ đã tính toán theo

                  lôgic máy móc. Nhưng  điều mà họ không tính toán nổi,  đó là ý chí kiên
                  cường và trí tuệ thông minh, sáng tạo của con người Việt Nam đã vượt qua
                  được những khó khăn trở ngại tưởng như không thể nào khắc phục nổi. “Cán

                  bộ, chiến sĩ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam đã cùng toàn dân, toàn
                  quân làm nên sự nghiệp đó” . Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, dựa vào
                                                   2
                  dân, xây dựng, tổ chức, huy động toàn dân làm công tác hậu cần vẫn là một
                  chủ trương, quan điểm nhất quán của ngành hậu cần, là phương thức cơ bản
                  để đạt được mục đích của công tác hậu cần.

                      Trong tình hình hiện nay, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ
                  chiến lược của  Đảng và Nhà nước, với sự tham gia của toàn dân và toàn
                  quân. Ngành hậu cần với chức năng bảo đảm cho Quân đội nhân dân xây

                  dựng, sẵn sàng chiến  đấu và chiến  đấu, là khâu nối liền hậu phương  đất
                  nước với tiền tuyến nên quan  điểm hậu cần nhân dân của  Đại tướng


                  _______________

                      1. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử hậu cần - kỹ thuật trong kháng chiến chống Mỹ,
                  cứu nước, tập 3 (1973-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2017, tr. 244.
                      2. Võ Nguyên Giáp: “Hậu cần toàn dân bảo  đảm chiến tranh nhân dân Việt Nam toàn
                  thắng”, Sđd, tr. 35.

                                                                                                   707
   704   705   706   707   708   709   710   711   712   713   714