Page 723 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 723
Phần thứ hai: T I NĂNG QUÂN SỰ XUẤT CHÚNG, CỐNG HIẾN ĐẶC BIỆT XUẤT SẮC...
vai trò của các lực lượng vũ trang địa phương, của đông đảo quần chúng, của
vũ khí thô sơ, của các cách đánh độc lập của từng binh chủng quy mô vừa và
nhỏ. Chúng ta chưa có không quân chiến lược tầm xa thì đã có các lực lượng
tại chỗ, các đội pháo binh và bộ binh tinh nhuệ tập kích sâu vào các căn cứ
hậu phương của địch thiết lập trên đất nước ta, đạt được hiệu suất chiến đấu
rất cao. Chúng ta chưa có hải quân mạnh thì đã có các đội đặc công nước làm
được một phần nhiệm vụ của hải quân, chuyên đánh phá tàu xuồng và căn
cứ hải quân của địch. Ngoài việc sử dụng máy bay, tên lửa và pháo cao xạ,
chúng ta còn sử dụng cả súng máy, súng trường để bắn rơi máy bay hiện đại
của địch... Chính vì đã thực hiện như vậy nên quân và dân ta đã có thể chủ
động tiến công địch một cách liên tục ở mọi nơi.
Trái lại, với những nhà chiến lược nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam
cho rằng chiến tranh nhân dân đồng nghĩa với chiến tranh du kích và một số
cán bộ, chiến sĩ của ta có nhận thức không đúng, chỉ chú trọng đẩy mạnh
đấu tranh chính trị, chiến tranh du kích, chỉ chăm lo xây dựng lực lượng
chính trị, lực lượng vũ trang địa phương và dân quân du kích, coi nhẹ xây
dựng bộ đội chủ lực, thì Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định dứt khoát
rằng: Đảng ta không bao giờ có một chiến lược quân sự thuần túy và cũng
chưa bao giờ hạn chế chiến tranh ở mức độ chiến tranh du kích. Chiến lược
chiến tranh cách mạng của Đảng là một chiến lược tổng hợp, kết hợp đấu
tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, kết hợp chiến
tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh
lớn... Vì vậy, trong khi đẩy mạnh đấu tranh chính trị, phát triển chiến tranh
du kích, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng bộ đội chủ lực thành những binh
đoàn mạnh từ tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn đến quân đoàn, trở thành
những “quả đấm thép” đủ sức giáng cho địch những đòn tiêu diệt lớn, quyết
định chiến trường...
Những quan điểm về tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng của Đại tướng
Võ Nguyên Giáp không chỉ tồn tại trên phương diện lý luận, mà được ông đưa
ra vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong thực tiễn chỉ đạo, chỉ huy bộ đội trên
các chiến trường, mạng lại hiệu lực chiến lược ngày càng to lớn. Trong kháng
chiến chống Pháp (1945-1954), hoạt động tác chiến hiệp đồng binh chủng
xuất hiện khi bộ đội chủ lực được tổ chức thành đại đoàn và có những thành
phần binh chủng kỹ thuật phối hợp trong tác chiến. Với trọng trách là Tổng
721