Page 217 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 217

Phần II: NHÀ LÃNH ĐẠO CÓ TÂM, CÓ TẦM                            215


                           con sông Đuống, ông và các bạn phải đi học từ 3 - 4 giờ sáng.
                           Mùa hè còn đỡ, mùa đông rất vất vả, nhiều hôm trời mưa, đò
                           không chở sớm, ông đành đến lớp muộn. Được một thời gian,
                           phải trọ học. Vài ba anh em  ở nhờ một nhà dân, tự lo cơm

                           nước và giúp đỡ nhau học tập. Ăn uống kham khổ, thiếu thốn,
                           nhiều lúc ông phải vừa học vừa tự lao động kiếm sống. Có lẽ
                           vì thế mà Nguyễn Phú Trọng đã sớm có ý thức tự lập và có ý
                           chí vươn lên.

                                Ngay từ nhỏ, ông đã rất thích văn học dân gian và thường
                           ước mơ được theo nghề văn hoặc nghề báo. Ham học lại thông
                           minh nên học hết lớp 10, ông thi đỗ ngay vào Khoa Ngữ văn,
                           Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (khóa 1963 - 1967). Trường
                           sở lúc này còn phân tán. Năm đầu học ở khu Chùa Láng, năm
                           sau chuyển về khu Mễ Trì. Từ năm 1965 đến năm 1967, Trường

                           Đại học Tổng hợp Hà Nội sơ tán lên huyện Đại Từ, tỉnh Bắc Thái
                           (nay là tỉnh Thái Nguyên).  Đó là giai  đoạn cuộc kháng chiến
                           chống Mỹ, cứu nước đang hồi quyết liệt, nhưng thầy và trò nhà
                           trường vẫn nêu cao quyết tâm dạy tốt và học tốt. Mỗi khi nhớ

                           lại những tháng ngày học tập tại Trường Đại học Tổng hợp
                           Hà Nội, GS. Nguyễn Phú Trọng không khỏi bồi hồi xúc động
                           pha lẫn sự tự hào. Ông kể: ”Vào một buổi sáng đẹp trời, đầu tháng
                           9-1963, chúng tôi tập trung ở giảng đường 1 - phố Lê Thánh Tông
                           (tức khu 19 Lê Thánh Tông bây giờ). Trước lúc điểm danh, tôi đứng
                           chơi dưới vườn Tao Đàn. Ngước nhìn lên cổng trường ngắm mãi dòng

                           chữ “Trường Đại học Việt Nam” sao mà cảm thấy lâng lâng, hãnh
                           diện. Gặp nhau buổi đầu còn bỡ ngỡ, làm quen còn rụt rè, nhưng thấy
                           bạn hữu ai cũng “siêu” cả, không học sinh giỏi nhất, nhì Văn toàn
                           miền Bắc (lúc đó miền Nam chưa được giải phóng) thì cũng đứng đầu

                           hàng tỉnh…”. Cuối năm 1964 đầu năm 1965, trong không khí sục
                           sôi đánh Mỹ, thanh niên học sinh đua nhau viết đơn bằng máu
                           tình nguyện xin vào Nam chiến đấu, hối hả luyện tập, tập trận
   212   213   214   215   216   217   218   219   220   221   222