Page 53 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 53
định trong thời gian tương đối ngắn (như Nghị quyết của Bộ
Chính trị tháng 9/1964), nhiệm vụ chiến lược quân sự ở miền
Nam trong giai đoạn tới là: 1) Tiêu diệt một bộ phận quan trọng
sinh lực tinh nhuệ của địch, làm tan rã quân đội địch; 2) Làm
chủ toàn bộ nông thôn và rừng núi; kết hợp đấu tranh chính trị
với binh vận, giải phóng những thị xã, thị trấn có điều kiện; bao
vây cô lập và chuẩn bị mọi điều kiện để giành thắng lợi ở các
thành phố lớn và căn cứ quân sự; chia cắt, cô lập địch khắp nơi,
tiêu hao và làm rối loạn hậu phương địch; 3) Mở rộng, củng cố
các khu căn cứ và địa bàn chiến lược của ta, vùng giải phóng
của bạn, bảo đảm hành lang vận chuyển chiến lược; 4) Chuẩn bị
mọi điều kiện thuận lợi và tạo thời cơ kết hợp đấu tranh chính
trị của quần chúng ở đô thị với phong trào binh biến trong hàng
ngũ địch, nhất là ở các thành phố lớn có ý nghĩa chiến lược là
Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ.
Để hoàn thành nhiệm vụ chiến lược trên đây, báo cáo của Bộ
Tổng tham mưu nêu lên những nhiệm vụ chủ yếu và phương
châm hoạt động cần nắm vững. Riêng về phương hướng sử dụng
bộ đội chủ lực, Bộ Tổng tham mưu đề nghị: Tập trung hoạt động
trên hai chiến trường chính là Tây Nguyên, vùng giáp ranh
đồng bằng Khu 5 (nơi địch sơ hở nhất) và miền Đông Nam Bộ (nơi
có quân địch tập trung cao). Trên các chiến trường khác, kể cả
Trung và Hạ Lào, bộ đội địa phương và dân quân, du kích hoạt
động là chủ yếu. Cần chuẩn bị mọi mặt để từ tháng 6/1965 đến
mùa xuân năm 1966 mở được ba đợt hoạt động của bộ đội tập
trung. Dự kiến đợt 1: từ tháng 6 đến tháng 8/1965; đợt 2: từ tháng
11/1965 đến tháng 1/1966; đợt 3: từ tháng 3 đến tháng 4/1966.
Bản dự thảo của Bộ Tổng tham mưu dự kiến khi ta đánh
mạnh ở miền Nam, địch sẽ tăng cường hoạt động đánh phá
hành lang Trung - Hạ Lào mạnh hơn. Vì vậy, phải tích cực
chống lấn chiếm và đẩy lùi địch trên Đường 9, buộc địch bỏ
51