Page 444 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 444
“Cuộc chiến tranh giải phóng đã được sáu năm.
Quân đội chính quy của ta tăng gấp bốn lần về số lượng, đã
tiến rất nhiều về chất lượng. Các bộ đội địa phương ngày nay đã
thành một lực lượng mạnh hơn Vệ quốc quân lúc mới kháng chiến.
Đó là về lực lượng vũ trang. Còn nhân dân thì đã được rèn luyện,
giác ngộ thêm, đoàn kết càng chặt chẽ, tin tưởng càng mãnh liệt,
uy tín của chính quyền nhân dân, của Đảng và của Hồ Chủ tịch
ngày càng tăng thêm.
Sáu năm kháng chiến đã chứng tỏ: đường lối trường kỳ kháng
chiến của Đảng là đúng; đã chứng tỏ: mặc dầu đất hẹp, của ít,
kinh tế lạc hậu, nhờ ở những điều kiện mới trong nước và ngoài
nước, nhân dân Việt Nam không những có thể đeo đuổi cuộc
kháng chiến lâu dài mà lại càng đánh càng mạnh, và nắm chắc
phần thắng lợi” .
1
Trong phần thứ hai, ông Giáp lược qua ba giai đoạn chiến lược
của cuộc kháng chiến làm cơ sở để phân tích ưu, khuyết điểm của
chỉ đạo trong giai đoạn đầu (9/1945 – 12/1947), những tiến bộ trong
giai đoạn hai (1948 - 1950). Ông nhấn mạnh năm 1948 là năm
thành công của chiến tranh du kích, là năm chúng ta biến hậu
phương địch thành tiền phương của ta, khôi phục được nhiều cơ sở,
gây dựng được nhiều căn cứ địa trong lòng địch như ở Tây Bắc,
đồng bằng Bắc Bộ, ở Bình - Trị - Thiên, ở Tây Nguyên. Hai năm
1949 - 1950 là những năm thứ hai và thứ ba của giai đoạn mới,
những năm cục diện chiến tranh của Việt Nam bắt đầu chịu ảnh
hưởng lớn của tình hình quốc tế. Sự chỉ đạo chiến lược đề ra nhiệm
vụ tích cực chuẩn bị tổng phản công; việc xây dựng lực lượng theo
khẩu hiệu “chủ lực tinh nhuệ, hậu bị hùng hậu” đã thu được nhiều
thành tích, sự tiến bộ của vận động chiến cũng diễn ra bằng những
______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12,
tr.264.
442