Page 344 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 344
341 342 VÕ NGUYÊN GIÁP - TIỂU SỬ
Trước tình hình đó, chính quyền Mỹ chuyển sang
thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” mong giành
thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn trên chiến
trường miền Nam.
Chương VI Ngày 8-3-1965, khoảng 3.500 quân Lữ đoàn số 9
thuộc Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 3 Mỹ vào Đà
THAM GIA LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG, Nẵng. Sự kiện này đánh dấu việc quân Mỹ bắt đầu
BẢO VỆ MIỀN BẮC VÀ KHÁNG CHIẾN tham gia trực tiếp vào cuộc chiến tranh trên bộ ở miền
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC, Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1965, số quân Mỹ tham
GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM, chiến ở miền Nam lên tới 181.000 quân . Với lực lượng
1
THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC mạnh, trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện
(1965 - 1975) đại, quân Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa tiến
hành hàng loạt các cuộc càn quét, vây ráp hòng tiêu
diệt lực lượng vũ trang cách mạng, gây nhiều tội ác
1. Cùng Trung ương Đảng và Chính phủ lãnh man rợ với đồng bào miền Nam.
đạo xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đánh thắng Cùng với mở rộng chiến tranh ở hai miền Nam -
chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ Bắc Việt Nam, Mỹ tăng cường nỗ lực chiến tranh ở
(1965 - 1968) Lào. Từ tháng 7-1965, quân đội Mỹ và quân đội Việt
Nam Cộng hòa được Chính phủ cực hữu Lào cho
Sau hơn 10 năm can thiệp trực tiếp, ngày càng sâu phép vượt biên giới vào đất Lào hoạt động. Với ý đồ
vào Việt Nam và sau 4 năm tiến hành chiến lược “Chiến cô lập cao độ cách mạng Việt Nam, Mỹ còn tìm mọi
tranh đặc biệt”, mặc dù đã bỏ ra nhiều tiền của và công cách gây sức ép và lôi kéo Chính phủ trung lập
sức, sử dụng nhiều thủ đoạn và biện pháp về chính trị, Campuchia. Do chính sách ngoại giao đúng đắn của
quân sự, kinh tế, ngoại giao, nhưng đến những tháng
đầu của năm 1965, nỗ lực chiến tranh của đế quốc Mỹ ______________
có nguy cơ bị thất bại hoàn toàn trước sự tiến công 1. Xem Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính
mạnh mẽ của cách mạng miền Nam. trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và
bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr.312.