Page 597 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 597
Phần thứ hai: T I NĂNG QUÂN SỰ XUẤT CHÚNG, CỐNG HIẾN ĐẶC BIỆT XUẤT SẮC...
quốc gia, nêu rõ: “Quân đội của nước Việt Nam là một quân đội quốc gia”.
Những nội dung được quy định trong Sắc lệnh số 71/SL đã đặt nền móng cho
việc xây dựng quân đội chính quy với tổ chức biên chế thống nhất của Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo đó, đại đoàn là cấp có quy mô tổ chức cao
nhất. Tuy nhiên, mô hình về tổ chức biên chế một đại đoàn, có trang bị quân số
và vũ khí phù hợp từng đơn vị trực thuộc đại đoàn mới chỉ là bước đầu, nên vẫn
được tiếp tục nghiên cứu từng bước hoàn thiện trong những năm tiếp theo
nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và chiến đấu diễn ra ngày càng ác liệt.
Thực hiện chủ trương xây dựng các đại đoàn chủ lực, các chi đội ở Bắc Bộ
và Trung Bộ được cải tổ thành trung đoàn, tiểu đoàn độc lập (gồm 32 trung
đoàn). Ở Nam Bộ, vẫn giữ nguyên tổ chức chi đội (gồm 25 chi đội). Trên cơ sở
các trung đoàn, ta tổ chức 2 đại đoàn (1 và 2) ở Bắc Bộ và 3 đại đoàn (23, 27, 31)
ở Nam Trung Bộ. Tuy nhiên, lúc này việc thành lập các đại đoàn chỉ mang
tính hình thức, tập hợp lực lượng. Do chưa đủ điều kiện về khả năng lãnh
đạo, chỉ huy và bảo đảm cung cấp, hậu cần kỹ thuật, nên đến tháng 11/1946,
các đại đoàn trên được giải thể để tập trung xây dựng, củng cố các đơn vị bộ
đội quy mô cấp trung đoàn, tiểu đoàn.
Bên cạnh tập trung xây dựng các đơn vị bộ binh, một số tổ chức tiền thân
binh chủng kỹ thuật cũng từng bước hình thành. Ngày 29/6/1946, Bộ Tổng
Tham mưu quyết định thành lập 3 trung đội pháo binh đặt tại Pháo đài
Láng, Xuân Tảo, Xuân Canh. Đây là những trung đội pháo binh chủ lực đầu
tiên của quân đội ta. Ngoài ra, Bộ Quốc phòng còn tổ chức các bộ phận
nghiên cứu không quân, hải quân, tạo cơ sở ban đầu để nghiên cứu định
hướng xây dựng, tiến tới hình thành hai quân chủng kỹ thuật sau này.
Sau ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946), quân số bộ đội
chủ lực tăng nhanh, từ 85.000 cán bộ, chiến sĩ cuối năm 1946, đến mùa hè
năm 1947 đã tăng lên hơn 125.000, gồm 57 trung đoàn và 19 tiểu đoàn độc
lập ở các tỉnh, các địa phương trên toàn quốc . Yêu cầu cấp thiết đặt ra lúc
1
này là phải tổ chức xây dựng bộ đội chủ lực có quy mô tổ chức biên chế cấp
trung đoàn, đại đoàn để làm nòng cốt cho lực lượng vũ trang và toàn dân
đánh giặc. Theo đề nghị của Tổng Chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân
_______________
1. Dương Đình Lập: Các đại đoàn chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam (1949-1954),
Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2019, tr.20.
595