Page 473 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 473
Theo nhận xét của cơ quan tham mưu, mức độ thương vong
6 tháng thấp hơn so với cùng kỳ năm 1968 nhưng chất lượng
chiến đấu cao hơn. Qua kiểm nghiệm ở một số chiến trường, có
tới 80 - 90% thương vong là do phi pháo. Số thương vong ngoài
chiến đấu tăng (chiếm 30 - 60%), phần lớn do phi pháo trong
trú quân, hành quân, khi đi lấy gạo, vận chuyển vũ khí, chuẩn
bị chiến trường.
Về khả năng nuôi dưỡng bệnh binh, cứu chữa thương binh
để trở lại chiến trường, Nam Bộ đạt 60%, Khu 5 và Trị - Thiên
đạt 32 - 40%, Tây Nguyên đạt 53%. Đáng chú ý là nguồn bổ
sung hao hụt ở đồng bằng Nam Bộ khó khăn, nhiều đơn vị quân
số teo dần như Khu 8 (tiểu đoàn chủ lực, tiểu đoàn địa phương
có lúc chỉ còn từ 69 đến 240 người, đột xuất có đại đội chỉ còn 3
người). Khu 9 phải giải thể một trung đoàn và hai tiểu đoàn để
lấy quân bổ sung cho các đơn vị khác. Việc chấp hành chính
sách thương binh, tử sĩ, so với năm 1968 tuy có tiến bộ nhưng
vẫn chưa giải quyết được tốt.
Báo cáo của Cục Tác chiến về kết quả giành dân trong 6
tháng đầu năm 1969 cho biết: dân số toàn miền Nam tính đến
tháng 6/1969 là 16.173.919 người, trong đó số dân đã giành
quyền làm chủ là 3.013.565 người (giảm 1.015.594 so với cuối
năm 1968), trong vùng tranh chấp là 3.287.320 người, số bị địch
khống chế là 9.873.034 người (gồm 4.007.961 dân nông thôn,
5.865.073 dân thành thị).
Trong 6 tháng đầu năm 1969, địch tiến hành bình định, lấn
chiếm, xúc (tác) dân, dùng phi pháo và chất độc hóa học dồn ép
dân vào vùng chúng kiểm soát. Ta đã đánh phá, giành giật, làm
cho kế hoạch bình định của chúng ở một số nơi không thực hiện
được. Vùng giải phóng nông thôn và bàn đạp vùng ven do địch
471