Page 470 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 470

ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người
                                                                         1
                      không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” . Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
                      vấn đề vô cùng quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Đảng là

                      xây dựng đường lối chính trị đúng đắn dựa trên cơ sở lý luận Mác-Lênin, vận
                      dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện Việt Nam, học tập kinh nghiệm của các
                      Đảng Cộng sản anh em,... Người lưu ý phải thường xuyên giáo dục đường lối,
                      chính sách của Đảng cho cán bộ, đảng viên; đồng thời, Người cũng cảnh báo
                      nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị có thể gây hậu quả nghiêm trọng đến sự
                      nghiệp cách mạng của nhân dân, vận mệnh của Tổ quốc.
                            Có chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, soi đường, dẫn lối, Đảng
                      đã đạt được những mục tiêu nhất định, đã lãnh đạo được giai cấp công nhân thực
                      hiện được sứ mệnh lịch sử của mình, đưa dân tộc Việt Nam vượt qua những khó
                      khăn, thử thách của lịch sử, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chủ tịch Hồ
                      Chí Minh yêu cầu: “Đảng áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp Mác-
                      Lênin mà giải quyết các vấn đề thực tế của cách mạng Việt Nam… không phải

                      chỉ học thuộc lòng vài bộ sách của Mác-Lênin mà làm được như vậy. Đảng phải
                      có tinh thần khoa học và tinh thần cách mạng rất cao, phải hiểu rõ lịch sử xã hội,
                      phải quyết tâm phấn đấu cho giai cấp và nhân dân, phải tin tưởng vào lực lượng
                                                       2
                      và sáng kiến của quần chúng” . Điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc học
                      tập, nâng cao năng lực về lý luận để vận dụng vào thực tiễn cách mạng “chứ
                      không phải học lý luận vì lý luận, hoặc vì tạo cho mình một cái vốn lý luận để
                                                         3
                      sau này đưa ra mặc cả với Đảng” .
                            Xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng là hai mặt của một quá trình thống nhất,
                      có quan hệ chặt chẽ với nhau, gắn kết với nhau vì mục tiêu đem lại cho Đảng
                      một chất lượng mới, một tầm cao mới để Đảng luôn tồn tại với tư cách người

                      lãnh đạo cách mạng, luôn phát triển với tư cách Đảng cầm quyền. Do vậy, với
                      Người, xây dựng và chỉnh đốn Đảng không chỉ là nhiệm vụ then chốt, mang tầm
                      chiến lược, mà còn là công việc thường xuyên của Đảng trong vai trò lãnh đạo
                      cách mạng, bởi “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm
                                                      4
                      lái có vững thuyền mới chạy” . Trên thực tế, ở đâu, “muốn hoàn thành tốt mọi
                      việc, thì toàn thể đảng viên và cán bộ phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và
                      chính sách của Đảng. Và muốn như vậy, thì các cấp ủy đảng phải tăng cường
                      công tác kiểm tra. Vì kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán
                      bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho
                                                                                                         5
                      nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức” .
                      __________
                            1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 289.
                            2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 277.
                            3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 95.
                            4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 289.
                            5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 362.


                                                               468
   465   466   467   468   469   470   471   472   473   474   475