Page 161 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 161

quá mức và không hợp lý, khai thác hủy diệt; du   và  trên  các  đảo,  nhưng  cũng  đứng  trước  không

 lịch thiếu kiểm soát; ô nhiễm môi trường biển có   ít  khó  khăn  và  thách  thức.  Trước  tình  hình  đó,
 chiều  hướng  tăng,  thiên  tai  và  biến  đổi  khí  hậu   Chính phủ Việt Nam đã ưu tiên và chú trọng hoạt
 diễn ra thường xuyên và tác động mạnh; nguồn lực   động bảo tồn thiên nhiên biển (bảo vệ các hệ sinh
 cho quản lý hệ sinh thái còn nhiều bất cập. Những   thái biển, nơi sinh sống của các loài sinh vật biển,
 vấn  đề  trên  cùng  với  hạ  tầng  cơ  sở  nghèo  nàn,   bảo vệ nguồn lợi thủy sản, thành lập và quản lý
 trang thiết bị thiếu thốn, nhận thức của đội ngũ   hiệu quả các bãi giống, bãi đẻ của các loài thủy
 cán bộ làm công tác bảo tồn và quản lý tài nguyên   sản kinh tế, các khu bảo tồn biển,...) và xem nó

 biển còn thấp và thiếu sự tham gia của cộng đồng   như một trong những cách tiếp cận phát triển bền
 trong việc lập kế hoạch và quản lý các khu bảo tồn   vững kinh tế biển nước ta trong bối cảnh biến đổi
 đã làm hạn chế tính bền vững của các hệ sinh thái   khí hậu, nước biển dâng.
 và các khu bảo tồn biển. Những phân tích trên về   Việc duy trì được tính đa dạng các hệ sinh thái
 tiềm năng và thực trạng quản lý đa dạng sinh học   và  các  loài  sinh  vật  biển  chính  là  giữ  cho  vùng
 biển, diễn biến xấu của các hệ sinh thái biển - ven   biển không trở thành “thủy mạc”, bảo toàn được
 biển và thực trạng khai thác tài nguyên sinh vật   “nguồn vốn tự nhiên” cho phát triển du lịch sinh
 biển,... đòi hỏi phải tăng quy mô, diện tích và quản   thái biển - ven biển, cũng như tạo ra sự phát triển

 lý hiệu quả các khu bảo tồn biển nước ta.  ổn định của hai lĩnh vực kinh tế biển nói trên và
           các lĩnh vực dịch vụ đi kèm. Do vậy, bảo tồn biển và
 Câu hỏi 45: Quá trình thành lập các khu   phát triển kinh tế biển là hai mặt của một vấn đề
 bảo tồn biển ở Việt Nam diễn ra như thế nào?  trong phát triển bền vững biển, đảo hướng tới hình

 Trả lời:  thành nền kinh tế biển xanh, bao gồm kinh tế bảo
 Như trên đã nói, biển, vùng ven biển và đa   tồn biển. Ngày nay, bảo tồn và phát triển kinh tế
 dạng sinh học, cũng như các hệ sinh thái trong   bảo tồn đang trở thành phương thức sử dụng biển
 chúng đã và sẽ cung cấp “nền tảng tài nguyên”   khôn ngoan nhất, lâu bền nhất. Các quốc gia có

 cho phát triển bền vững kinh tế biển nói chung   biển thường quan tâm rất sớm đến việc thiết lập và
 và hai ngành kinh tế mũi nhọn là nghề cá và du   quản lý các khu bảo tồn biển, dù vẫn còn chậm hơn
 lịch  biển  nói  riêng.  Đây  là  hai  lĩnh  vực  kinh  tế   so với việc thiết lập các khu bảo tồn thiên nhiên
 biển gắn chặt với phúc lợi của người dân ven biển   trên đất liền. Nhiều quốc gia có tỷ lệ diện tích các


 158                                                      159
   156   157   158   159   160   161   162   163   164   165   166