Page 235 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 235
Phần thứ nhất: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
nhân dân Việt Nam thật sự trở thành nghệ thuật, đó là nghệ thuật đánh lâu
dài để chuyển hóa so sánh lực lượng. Đó là nghệ thuật tổ chức và sử dụng
kết hợp lực lượng vũ trang ba thứ quân, từ quy mô nhỏ bé ban đầu tới hình
thành các quân, binh chủng, các binh đoàn chủ lực - những “quả đấm thép”
giữ vai trò quyết định thắng lợi trên chiến trường. Đó là nghệ thuật phân
tích, dự báo sớm âm mưu và hành động của đối phương; đánh giá đúng tình
hình với tư duy chiến lược sắc sảo, chủ động về chiến lược và chiến dịch, chủ
động về lực lượng, thế trận và cách đánh. Trong tư duy của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, thực tiễn và lý luận luôn hòa quyện kết hợp nhuần nhuyễn; tư
duy biện chứng, tư duy sáng tạo; hoạt động quân sự luôn được soi sáng bởi lý
luận khoa học; đồng thời, luôn coi trọng tổng kết rút kinh nghiệm để chỉ đạo
kịp thời hoạt động thực tiễn quân sự, quốc phòng.
Ba là, tư duy xây dựng lực lượng quân sự, một yếu tố nòng cốt trong học
thuyết quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát
từ thực tiễn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất coi trọng việc xây dựng lực
lượng vũ trang có các tổ chức đảng lãnh đạo thật trong sạch, vững mạnh,
đảng viên tiên phong, gương mẫu. Quân đội có bản lĩnh chính trị, bản lĩnh
chiến đấu kiên cường, tinh thông kỹ, chiến thuật quân sự, có khả năng tác
chiến đạt hiệu suất cao. Toàn thể cán bộ, chiến sĩ có lòng yêu nước nồng nàn,
trung thành vô hạn với lý tưởng cách mạng của Đảng, kiên trung, bất khuất
trước kẻ thù, lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi, nội bộ dân chủ, kỷ luật, yêu
thương, gắn bó với nhau, đoàn kết quân dân như cá với nước. Tinh thần “vì
nhân dân quên mình” luôn được truyền đạt, thấm sâu đến từng chiến sĩ.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đặc biệt quan tâm nghiên cứu, xây dựng,
phát triển lực lượng quân sự thích ứng với thực tiễn từng thời kỳ của chiến
tranh. Ngày đầu thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ 34 chiến sĩ, với
trang bị chỉ có 2 khẩu súng ngắn, 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng
máy vào tháng 12/1944, đến năm 1975 đã trở thành một quân đội hùng
mạnh, với hơn một triệu người với đầy đủ các quân chủng, binh chủng,
ngành, trong đó có những quân đoàn cơ động chiến lược - những “quả đấm
thép”, có đủ sức mạnh tác chiến độc lập trên một hướng chiến lược.
Đại tướng là người sớm có kiến nghị và có nhiều công lao trong việc khẩn
trương xây dựng Quân đội nhân dân tiến lên chính quy, hiện đại, xây dựng
233