Page 442 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 442

Tuy vào thời điểm đó, có những tư tưởng kinh tế của văn phòng

            này không được nhiều người chấp nhận, nhưng riêng Bí thư Thành
            ủy Võ Văn Kiệt vẫn rất trân trọng, khuyến khích anh em tiếp tục
            nghiên cứu và phát biểu.
                Vào  năm  1986,  tại  Thành  phố  Hồ  Chí  Minh,  đã  hình  thành
            “Nhóm thứ sáu” (có tên này vì nhóm thường sinh hoạt vào ngày thứ
            sáu hằng tuần), gồm 24 thành viên, trong đó có các chuyên gia kinh

            tế như Phan Chánh Dưỡng, Lâm Võ Hoàng, Trần Bá Tước, Phan
            Thành Chánh, Huỳnh Bửu Sơn..., những người có tâm huyết và có
            trình độ, được ông rất ủng hộ và giao nghiên cứu nhiều chuyên đề.
            Nhóm này đã đóng góp nhiều ý kiến xác đáng về các chủ trương
            và giải pháp cải cách giá - lương - tiền trong thời gian cuối những
            năm 1980 khi cả nước lâm vào tình trạng lạm phát phi mã, khủng
            hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nghiêm trọng. Năm 1989, các ông
            Phan Chánh Dưỡng, Lâm Võ Hoàng và Huỳnh Bửu Sơn đã được
            mời ra Hà Nội để tham gia nhóm chuyên gia độc lập dưới sự chỉ

            đạo trực tiếp của ông Võ Văn Kiệt (cùng ông Cao Sỹ Kiêm lúc đó là
            Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước và ông Phan Văn Tiệm lúc đó
            là Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước) soạn thảo hai pháp lệnh
            về tổ chức ngân hàng hai cấp (Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước
            tức Ngân hàng Trung ương và Pháp lệnh về Ngân hàng, Hợp tác xã
            tín dụng và Công ty tài chính). Đây là một việc có ý nghĩa rất quan

            trọng thời đó để phù hợp với việc xóa bỏ hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh,
            tự do hóa lưu thông tư liệu sản xuất, v.v., tách bạch chức năng điều
            tiết chính sách tiền tệ của cấp ngân hàng trung ương với chức năng
            kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
                Từ khi ra Trung ương (1982) đảm trách những nhiệm vụ quan
            trọng trong Chính phủ (từ Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch Hội đồng Bộ
            trưởng, Thủ tướng Chính phủ), có thể nói không có công trình, chính
            sách  kinh  tế  lớn  nào  do  ông  chủ  trương  thực  hiện  (như  Chương

            trình  khai  thác  vùng  Đồng  Tháp  Mười  1988-1997,  vùng  Tứ  giác
            Long Xuyên, ngọt hóa bán đảo Cà Mau; đường dây tải điện 500kV,

            440
   437   438   439   440   441   442   443   444   445   446   447