Page 29 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 29

Phần I: ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC                                                                                                    ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC



                 Con đường vào nhà quê nội ở làng Sen bốn mùa điểm                               bão của Bác đích thực là hoài bão của mỗi người dân, của
             hoa râm bụt như chào mừng khách thập phương. Cây ổi đỏ                              mỗi con người Việt Nam bình thường.
             ruột cao hơn hai thước rẽ ba, sà xuống sân nhà chan hòa cùng                            Cụm di tích Kim Liên hiện nay mở rộng đến ngọn Động
             bưởi, thanh trà như trang trí cảnh đón khách. Mấy khóm huệ,                         Tranh  Thấp  trên  núi  Đại  Huệ  ở  độ  cao  100m.  Năm  1983,
             vài khóm cúc, lay ơn đung đưa trước gió tỏa hương sắc.                              Khu mộ bà Hoàng Thị Loan đã được xây khang trang ở đó.
                 Phía sau là hàng cau thon thả tỏa tán lá tròn xoe trải                              Bà  Hoàng  Thị  Loan  mất  năm  1901  tại  Huế.  Thi  hài
             dài trên con đường như tươi xanh. Từ khóm tre, khóm si                              được  táng  ở  chân  núi  Ba  Tầng  bên  dòng  sông  Hương.
             quanh  vườn  rộn  ràng  tiếng  hót  của  chào  mào,  vành                           Năm  1922,  cô  Nguyễn  Thị  Thanh  con  gái  của  bà,  một
             khuyên, chích chòe. Lại tiếng gà mẹ tục tục gọi con, tiếng                          chiến sĩ yêu nước chống thực dân Pháp bị cầm tù ở Quảng
             thập  thình  chày  giã  gạo.  Và  những  mái  rơm  ẩn  hiện                         Ngãi được đưa ra an trí ở Huế. Đến ngày được thả, cô đã
             những sợi khói lam mảnh mai, quyến luyến trên ngôi nhà                              tìm cách đưa hài cốt của mẹ về quê yên nghỉ ngay trong
             bảo  tàng  thiêng  liêng.  Thật  là  đặc  biệt!  Một  nhà  sử  học                  khu vườn nhà. Đến năm 1942, người con trai lớn Nguyễn
             người Anh đã thú vị ghi lại: "Đến Kim Liên tôi càng thấy                            Sinh  Khiêm,  sau  khi  thoát  khỏi  nhà  tù  thực  dân,  trở  về
             lạ hơn. Tôi chưa từng thấy một nhà bảo tàng nào lại được                            quê đã đi tìm nơi cát táng cho mẹ. Đó là vị trí Động Tranh

             nghe tiếng gà gáy, tiếng chim ca, được thấy trẻ em đi học                           (trong dãy Đại Huệ) hiện nay.
             chật đường...". Ông mệnh danh đây là loại bảo tàng mới:                                 Từ Động Tranh nhìn về phía nam là cả dãy Thiên
             Bảo tàng mở với đời sống, khác với khái niệm bảo tàng                               Nhẫn ngàn đỉnh trùng trùng. Ở đó còn dấu tích thành
             xưa nay là di tích, dư âm của đời sống đã trôi qua được                             Lục  Niên  Lê  Lợi  dựng  năm  1424  trong  cuộc  kháng
             giữ lại. Bảo tàng Kim Liên chan hòa với hiện tại, không                             chiến chống quân Minh xâm lược; có miếu thờ La sơn
             cách biệt với cuộc sống đang diễn ra hàng giờ, cũng như                             Phu tử Nguyễn Thiếp đệ nhất danh sĩ thời Tây Sơn ở
             mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời: "Tôi                              núi Bùi Phong.
             chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao  cho đất                              Phía bên này sông Lam là núi Dũng Quyết, một tiền đồn
             nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng                        của quân nhà Trịnh, có thành Phượng Hoàng Trung Đô thời
                                                                  *
             bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" . Hoài                        vua Quang Trung.
             __________                                                                              Nhìn về phía tây là núi Đụn (Hùng Sơn) như bức bình

                 * Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà                  phong  án  ngữ,  còn  dấu  tích  thành  Vạn  ao  do  Mai  Thúc
             Nội, 2011, t.15, tr.627.                                                            Loan xây cất từ năm 722 chống quân xâm lược nhà Đường.

                                                                      27                           28
   24   25   26   27   28   29   30   31   32   33   34