Page 869 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 869
làm cho sức mạnh của các lực lượng tiến công của địch không còn
nguyên vẹn. Sau mỗi cuộc hành binh đánh chiếm, dù quân Pháp
chiếm đóng và kiểm soát một địa bàn nào đó chúng cũng không
hoàn toàn làm chủ nếu không rải quân ra hàng loạt đồn bốt để
khống chế, kìm kẹp nhân dân. Ngay hệ thống tháp canh mà Tướng
Đờ La Tua ken dày ở Nam Bộ những năm 1948 - 1950 cũng không
giúp chúng hoàn toàn kiểm soát được tình hình, nhất là về ban
đêm. Mặt khác, càng rải quân ra thì nạn khủng hoảng quân số
càng thêm trầm trọng, vừa không đủ quân để bảo vệ có hiệu quả
vùng tạm chiếm, càng không còn binh lực để tiếp tục các cuộc hành
quân đánh chiếm. Trên thực tế, trong suốt 9 năm, địch không hoàn
toàn làm chủ được địa bàn nào do chúng tạm chiếm. Khác với vùng
sau lưng địch trên đất Trung Hoa trong kháng chiến chống Nhật
cũng như trong nội chiến, vùng sau lưng địch của ta không phải là
“vùng trắng”, vì sự xuất hiện và tồn tại rất sớm những cơ sở chính
trị hay vũ trang bí mật. Sớm muộn những “lõm” chính trị và vũ
trang đó sẽ trở thành những khu du kích rồi căn cứ du kích trong
lòng địch. Chính vì sớm khẳng định điều này nên ngay từ hồi tháng
5/1946, tại Hội nghị Đà Lạt, ông Giáp đã vạch trần trước Phái đoàn
Pháp rằng lời tuyên bố của Tướng Lơcle hồi tháng 3/1946 nói rằng
“miền Nam Việt Nam đã bình định xong” chỉ là một lời lừa bịp.
Mâu thuẫn giữa tập trung quân để đánh chiếm với rải quân ra
phòng ngự giữ đất đã bộc lộ từ đầu năm 1946 ở Nam Bộ, khi quân
Nhật đã hồi hương, quân Anh đã rút về nước, diện chiếm đóng của
quân Pháp ở miền Nam đã rộng, Bộ Chỉ huy Pháp lại phải đưa một
bộ phận quan trọng của Sư đoàn 9 (9è DIC) ra Bắc sau Hiệp định
sơ bộ, do đó nạn khủng hoảng quân số đã bắt đầu trầm trọng, khiến
địch không còn tiếp tục mở các cuộc tiến công lớn, sau cố gắng cuối
cùng là cuộc hành quân Gô (Gaur) ra Nam Trung Bộ.
Mâu thuẫn của địch giữa tập trung và phân tán binh lực lại tái
diễn vào khoảng mùa hè năm 1947, sau khi Pháp phải rải quân ra
867