Page 874 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 874
muốn dùng sức mạnh để phá hủy tiềm lực của ta nhưng kết quả là
chính tiềm lực của chúng bị tiêu mòn nghiêm trọng”.
b- Về chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch
Việc chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch của Tổng Tư lệnh Võ
Nguyên Giáp trong cuộc kháng chiến chống Pháp có thể chia
làm hai thời kỳ. Sau chiến dịch phản công địch trên chiến
trường Việt Bắc , từ đầu năm 1948 đến trước mùa khô năm 1950
1
(tạm gọi là thời kỳ thứ nhất), quân ta triển khai các chiến dịch
tiến công quy mô nhỏ và vừa, lực lượng tham gia các chiến dịch
này gồm các trung đoàn chủ lực của bộ và của khu và thường do
Bộ Tư lệnh khu (liên khu) trực tiếp tổ chức theo phương hướng
chiến lược chung của Bộ Tổng chỉ huy. Từ Chiến dịch Biên giới
đến khi chiến tranh kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ
(tạm gọi là thời kỳ thứ hai) quân ta chuyển lên đánh lớn và các
chiến dịch đều do các đại đoàn dự bị chiến lược của bộ tiến
hành, dưới sự điều hành trực tiếp của Bộ Chỉ huy chiến dịch do
Thường vụ Trung ương chỉ định. Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp
luôn được chỉ định là Bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng chiến
dịch. Trong thời kỳ thứ hai này, xen kẽ với các chiến dịch lớn do
bộ trực tiếp chỉ huy, cũng còn một số chiến dịch do Bộ Tổng tư
lệnh chỉ đạo về phương hướng và tổ chức phối hợp về chiến lược,
cấp khu hoặc đại đoàn trực tiếp chỉ huy .
2
Trong thời kỳ thứ nhất
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp nhận thức đúng đắn về quy
______________
1. Chiến dịch đầu tiên phản công địch ở Việt Bắc mùa khô năm 1947,
do Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ đạo.
2. Các chiến dịch Long Châu Hậu (10/1950), Cầu Ngang (10/1950),
Bến Cát (11/1950), Lý Thường Kiệt (10/1951), Quảng Đà (8/1952), An
Khê (1/1953), Quảng Nam (5/1953), tây nam Ninh Bình (11/1953), Lai
Châu (12/1953), Trung Lào (12/1953 - 5/1954), Hạ Lào (1/4/1954), Thượng
Lào (2/1954), Bắc Tây Nguyên (1/7/1954).
872