Page 870 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 870
chiếm đóng các thành phố, thị xã, thị trấn và các trục giao thông
chiến lược từ Đà Nẵng trở ra. Cái mà báo chí Pháp hồi đó gọi là
mùa hè yên tĩnh nói lên một thực tế là Pháp không còn đủ binh lực
nên sức tiến công bị chững lại. Phải qua mấy đợt tăng viện, kể cả
số quân “tạm vay” của Pari, đến mùa khô năm 1947 Pháp mới tập
hợp được chừng 2 vạn quân mở cuộc tiến công lên Việt Bắc. Từ đầu
năm 1948 đến cuối năm 1950 là thời kỳ mà mâu thuẫn giữa tập
trung và phân tán binh lực của địch đã tiến dần tới mức sâu sắc
nhất. Đó chính là kết quả các chiến dịch nhỏ đã từng bước buộc
địch phải căng kéo lực lượng ra trên một diện rộng, đồng thời
chúng lại phải thường xuyên đối phó với chiến tranh du kích đã
ngày càng phát triển của ta, khiến cho khối cơ động chiến lược của
địch xuống tới mức thấp nhất . Không những các cuộc hành quân
1
đánh chiếm của địch đã chững hẳn lại, mà địch còn ngày càng lún
sâu vào thế phòng ngự chiến lược giữ đất, luôn ở vào thế bị động
đối phó với chủ lực của ta ở mặt trận phía trước và với chiến tranh
du kích trong vùng địch hậu. Đúng vào thời điểm mà lực lượng cơ
động chiến lược của địch mỏng nhất (10% tổng số binh lực), Tổng
Tư lệnh Võ Nguyên Giáp chớp thời cơ ra quân đánh lớn trên chiến
trường Biên giới mùa khô năm 1950, Bộ Chỉ huy Pháp không còn
lực lượng để ứng cứu kịp thời và có hiệu quả nên buộc phải chấp
nhận cái mà họ gọi là “thảm họa đường số 4”.
Từ đầu năm 1951, việc Đờlát phát triển quân đội ngụy quy mô
lớn cũng chỉ cho phép phía Pháp một năm sau mới mở được cuộc
tiến công ra Hòa Bình. Nếu không kể cuộc hành binh Caxto của
Nava tháng 11/1953 xuống Điện Biên Phủ nhằm mục đích phòng
ngự chiến lược (bảo vệ Thượng Lào), thì cuộc hành binh Hoa sen của
Đờlát ra Hòa Bình cuối năm 1951 được coi là cuộc hành binh cuối
______________
1. Cuối năm 1950, binh lực địch đã lên tới 24 vạn tên (tổ chức thành
124 tiểu đoàn), nhưng chỉ có 12 tiểu đoàn cơ động chiến lược (chừng 10%).
868