Page 21 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 21

Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - THỜI NIÊN THIẾU...  17                             18                                   VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ


                   1
             dặm” . Miền hoang địa gần như vô chủ ấy thực sự được                                tương trợ lẫn nhau trong việc khai hoang vỡ đất, chống
             đánh thức khi lớp lưu dân người Việt đầu tiên đặt chân                              chọi với thiên nhiên. Bằng công sức của nhiều thế hệ
             đến vào khoảng đầu thế kỷ XVIII.                                                    cần cù lao động, chặt phá cây cối, cắt cỏ rậm, những bãi
                 Những người dân đầu tiên đến khai phá vùng đất                                  lầy hoang vu  đã biến thành  những vùng  đất bằng
             này phần lớn là những nông dân nghèo miền Trung, do                                 phẳng phì nhiêu. Có thể nói, trong công cuộc khai phá

             không chịu nổi ách áp bức của chế độ phong kiến đương                               miền đất Nam Bộ nói chung và Vĩnh Long nói riêng, các
             thời, hoặc trốn tránh binh dịch, lao dịch trong cuộc                                thế hệ ông cha ta đã có công lao to lớn trong mở mang
             chiến tranh tương tàn giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài.                                bờ cõi và trong lao động, chiến đấu, giữ gìn từng tấc đất
             Họ lần lượt tiến vào miền đất mới bằng đường biển, với                              thấm đượm máu và mồ hôi mới có được.
             phương tiện chủ yếu là thuyền buồm và ghe bầu. Theo                                     Vĩnh Long trong các thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế
             sử cũ, các điểm cư ngụ đầu tiên của họ là Mỗi Xoài (Bà                              kỷ XIX, là vùng đất tụ cư của nhiều cộng đồng người:

             Rịa) và Đồng Nai, sau tiến dần xuống Sài Gòn, Mỹ Tho,                               Kinh (Việt), Khmer, Hoa,... trong đó bộ phận chính là
             Hà Tiên. Trong nửa đầu thế kỷ XVIII, người Việt tiếp                                người Kinh. Các dân tộc sống xen kẽ với nhau trong các
             tục di chuyển xuống vùng Long Hồ (Gò Công, Tân An,                                  làng xã, thôn ấp. Theo ghi chép của tác giả Trịnh Hoài
             Bến Tre,  Vĩnh Long), Trà Vinh, Ba Thắc, Sóc Trăng,                                 Đức trong quá  trình khảo sát về trấn Vĩnh Thanh:
             Bạc Liêu, Sa Đéc và Châu Đốc.                                                       “... tổng Vĩnh Thanh ở bờ đông sông Trà Ôn... chợ búa
                 Quá trình nhập cư của người Việt gắn liền với việc                              đông  đúc, là nơi dân Kinh, dân  Trung Quốc, dân Cao
             hình thành những thôn ấp theo mô hình làng xã truyền                                Miên hội tụ... Thủ đạo Trấn Di (ở sông Ba Thắc), dân

             thống của người nông dân Việt Nam đồng bằng Bắc Bộ                                  Kinh, dân Trung Quốc, dân Cao Miên ở lẫn nhau, phố
             và Trung Bộ. Trên vùng đất mới với rừng rậm bạt ngàn,                               chợ nối liền... Cửa biển Mỹ Thanh... bờ tây có thủ sở...
             hay sình lầy, chằm phá, lưu dân Việt luôn phải đối mặt                              người Kinh, người Trung Quốc, người Cao Miên nhà cửa
             với rất nhiều thử thách khắc nghiệt của tự nhiên. Đó là                             đông đúc, trồng thuốc lá, dưa quả, phơi tôm khô...” .
                                                                                                                                                       1
             nạn thú dữ, rắn độc, bệnh tật, ốm đau. Để sinh tồn, trụ                                 Quá trình khẩn hoang lập  ấp trên  địa bàn Vĩnh
             vững, người dân Việt phải quần tụ gắn bó,  giúp  đỡ,                                Long diễn ra liên tục từ khi lưu dân Việt đặt chân tới


             _________                                                                           _________
                 1. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,                      1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Nxb. Giáo dục,
             1964, tr.216.                                                                       Hà Nội, 1998, tr.53.
   16   17   18   19   20   21   22   23   24   25   26