Page 103 - 9786045773079
P. 103

bản thân ông ta phải nể sợ. Nhưng sự chờ đợi của                                     hoặc viết thừa hay thiếu một chữ. Trong đối xử, cụ
                 Lôgiu là một cố gắng vô ích.                                                         phân biệt rõ giữa những người Pháp trí  thức ít
                     Sétchiê và Lôgiu gờm sợ cụ Lê Văn Miến, thầy                                     nhiều có tinh thần yêu khoa học, trọng nhân phẩm
                 học của anh Côn, người thầy cùng quê và là bạn                                       với những viên quan cai trị tàn ác. Đối với những
                 thân của thân phụ anh bởi một lẽ rất đơn giản, cụ                                    kẻ có nợ máu, cụ thể như Lôgiu thì cụ công nhiên
                 Miến có tư tưởng bài Pháp sâu sắc và có một cuộc                                     khinh bỉ, phản đối.
                 sống cao thượng.                                                                        Cách xử sự rõ ràng vừa phải của cụ Lê  Văn
                     Sétchiê  đã nhận ra, nhưng không dám giới                                        Miến hẳn  đã có phần  ảnh hưởng  đến những học

                 thiệu đầy đủ về cụ. Khi cụ Miến học xong Trường                                      sinh có ý thức tu dưỡng của trường Quốc học Huế
                 thuộc địa Pari, Bộ trưởng Hải ngoại Pháp đến hỏi:                                    lúc bấy giờ.
                 “Anh có yêu nước Pháp không?”. Cụ trả lời: “Về văn                                      Cụ Lê Thước  người cùng quê, học trên anh Côn
                                                                                                                      1
                 hóa Pháp thì tôi thích nhưng những việc làm của                                      một lớp kể rằng:
                 người Pháp ở thuộc địa thì tôi không chịu”.                                             - Đường từ nhà anh Côn sang trường phải qua
                     Những kẻ  đồng học với cụ nếu là người của                                       cửa dinh Khâm sứ.  Đó là con  đường chúng tôi
                 “nước mẹ” thì đã làm đến Công sứ hay Khâm sứ                                         thường đi. Người ta đã cố tránh, nhưng hằng ngày,
                 như Sétchiê, nếu là người bản xứ thì cũng đã có                                      những cảnh tượng về lối sống lố lăng, phè phỡn của
                 người về nước làm đến Tổng đốc như Thân Trọng                                        bọn Tây đầm thực dân diễn ra trước cổng tòa biệt
                 Huề, Hoàng Trọng Phu... Riêng cụ Miến sau khi                                        thự ấy vẫn lộ liễu làm chướng tai, gai mắt. Có bạn
                 học xong Trường thuộc địa, cụ lại sang học Trường                                    lắc đầu: “Sao mà khó chịu làm vậy!”. Một bạn khác

                 Mỹ thuật Pari và về nước với nghề nghiệp là một                                      phàn nàn: “Chúng chẳng coi thuần phong mỹ tục
                 họa sĩ.                                                                              của mình ra cái gì!”. Anh Côn nói thong thả. Giọng
                     Cụ Miến thích gần thế hệ trẻ và ham mê sáng                                      anh có phần đanh lại: “Ta phải tìm xem cái gì đẻ ra
                 tạo nghệ thuật. Cụ là họa sĩ nổi tiếng về vẽ chân                                    lối sống ấy. Có phải cái đó cũng là căn do làm cho
                 dung và nghệ thuật sơn mài. Bức chân dung cụ vẽ                                      dân ta khổ”.
                 tặng thầy học Nguyễn Vinh Mậu là một tác phẩm                                        ___________
                 trứ danh đương thời. Vốn có sức nói và viết tiếng                                       1. Lê Thước (1891-1975), người làng Trung Lễ, huyện
                 Pháp rất sành nhưng cụ chỉ sử dụng khi thật cần                                      Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh,  đỗ Giải nguyên khoa Mậu Ngọ
                 thiết. Rất hiếm khi cụ nói thừa hay thiếu một tiếng                                  (1918), khi đã có bằng Thành chung và đi dạy học.

                                                                 101                                  102
   98   99   100   101   102   103   104   105   106   107   108