Page 35 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 35

Phần I: ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC                                                                                                    ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC



             mắc bệnh nặng, rồi mất vào ngày 7-2, giữa những ngày                                thương,  hàng  xóm,  người  chén  cơm,  tô  cháo  đùm  bọc
             xuân Tân Sửu năm 1901, lúc mới bước vào tuổi 33.                                    nuôi hai anh em Bác. Mãi đến mấy tháng sau ông Sinh Sắc
                 Hôm đó vào buổi trưa, như thường lệ Bác xách liễn ra                            mới trở về đưa Sinh Cung cùng bé Xin về quê gửi ông bà
             phố mua cơm - có bữa chỉ đủ tiền mua cháo. Về đến cửa,                              rồi lại vội vã vào Huế để kịp thi Hội khoa Tân Sửu. Năm
             Bác nghe tiếng bé Xin khóc thét lên. Bác chạy đến bế em                             ấy (1901), cụ đậu Phó bảng và trở về quê dạy học.
             và thấy mẹ lạnh ngắt. Hốt hoảng, Bác vừa lay vừa gọi mẹ.                                Năm  năm  sau  (1906),  sau  nhiều  lần  khất,  ông  Phó
             Biết  mẹ  mất,  Bác  òa  khóc.  Hàng  xóm  nghe  thấy,  mọi
                                                                                                 bảng phải vào kinh nhậm chức. Bác lại theo cha vào Huế
             người kéo đến trong đó có chú Lần và bà Tâm. Bà Tâm
                                                                                                 lần thứ hai.
             khuyên Bác đừng khóc, vì luật nhà vua, ở trong thành Nội
                                                                                                     Trong  5  năm  ở  quê,  ngoài  việc  học  chữ  quốc  ngữ,
             không ai được khóc than. Hàng xóm thương tình lo liệu
                                                                                                 Bác được học chữ Pháp với ông Nghè Nguyễn Viết Song.
             chôn  cất.  Theo  lệ  nhà  vua,  đám  tang  của  dân  thường
                                                                                                 Do vậy, khi vào Huế, Bác học tiếng Pháp rất giỏi. Ông
             không được khiêng quan tài qua cửa thành mà phải cho
                                                                                                 Phạm Gia Cận, quê ở Đức Thọ, Hà Tĩnh lúc ấy cùng học
             xuống thuyền chui qua cống đi ra bằng đường thủy.
                                                                                                 một lớp với Bác ở Huế kể lại rằng: Có lần thầy giáo ra
                 Đám  tang  bà  Hoàng  Thị  Loan  có  không  quá  chục
                                                                                                 một bài văn chữ Pháp để học trò dịch ra quốc ngữ, trong
             người đưa tiễn và chỉ có Bác là người thân duy nhất đi sau
                                                                                                 đó có câu:
             quan tài của mẹ. Thi hài đưa xuống thuyền ở sông Ngự
                                                                                                     Oh chat! Oh chat! Vous voulez manger le rat, montez
             Hà, luồn qua cống Thanh Long ra Hộ Thành Hà (nay gọi
                                                                                                 sur la poutre!
             là sông Đông Ba) chui qua cầu Hàm Tế ra sông Gia Hội về
                                                                                                     Bác đã dịch thành văn lục bát:
             sông Hương rồi mới khiêng bộ để chôn cất trên chân núi
                                                                                                                  Con mèo, Con mẻo, Con meo
             Tam Tầng thuộc dãy Ngự Bình.
                                                                                                               Muốn bắt con chuột thì leo lên xà.
                 Những năm tuổi thơ ở Huế của cậu bé Sinh Cung thật
                                                                                                     Ông  hiệu  trưởng  rất  khen  ngợi  và  đem  bài  văn  của
             vô cùng cơ cực. Cha, anh đi vắng, ông bà ở xa, mẹ mất,
                                                                                                 Bác đọc cho cả lớp nghe.
             một  mình  ở  tuổi  lên  mười,  thiếu  cơm,  rách  áo  lại  phải
                                                                                                     Vào Huế, Bác học năm cuối trường tiểu học và trúng
             nuôi em trai mới sinh. Hàng ngày Bác phải đi xin sữa, xin
                                                                                                 tuyển vào Trường Quốc học Huế. Ngày ấy cổng trường có
             cháo  nuôi  em  và  xin  cơm  cho  chính  mình.  Cả  tháng
                                                                                                 đắp nổi tên trường "Pháp tự Quốc học trường môn". Bác
             dường như bếp nhà không đỏ lửa. Thấy cảnh đó ai cũng                                nổi  tiếng  là  một  học  sinh  thông  minh,  học  giỏi.  Chính


                                                                      33                           34
   30   31   32   33   34   35   36   37   38   39   40