Page 36 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 36

Phần I: ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC                                                                       ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC



 mắc bệnh nặng, rồi mất vào ngày 7-2, giữa những ngày   thương,  hàng  xóm,  người  chén  cơm,  tô  cháo  đùm  bọc
 xuân Tân Sửu năm 1901, lúc mới bước vào tuổi 33.   nuôi hai anh em Bác. Mãi đến mấy tháng sau ông Sinh Sắc
 Hôm đó vào buổi trưa, như thường lệ Bác xách liễn ra   mới trở về đưa Sinh Cung cùng bé Xin về quê gửi ông bà
 phố mua cơm - có bữa chỉ đủ tiền mua cháo. Về đến cửa,   rồi lại vội vã vào Huế để kịp thi Hội khoa Tân Sửu. Năm
 Bác nghe tiếng bé Xin khóc thét lên. Bác chạy đến bế em   ấy (1901), cụ đậu Phó bảng và trở về quê dạy học.
 và thấy mẹ lạnh ngắt. Hốt hoảng, Bác vừa lay vừa gọi mẹ.   Năm  năm  sau  (1906),  sau  nhiều  lần  khất,  ông  Phó
 Biết  mẹ  mất,  Bác  òa  khóc.  Hàng  xóm  nghe  thấy,  mọi
             bảng phải vào kinh nhậm chức. Bác lại theo cha vào Huế
 người kéo đến trong đó có chú Lần và bà Tâm. Bà Tâm
             lần thứ hai.
 khuyên Bác đừng khóc, vì luật nhà vua, ở trong thành Nội
                 Trong  5  năm  ở  quê,  ngoài  việc  học  chữ  quốc  ngữ,
 không ai được khóc than. Hàng xóm thương tình lo liệu
             Bác được học chữ Pháp với ông Nghè Nguyễn Viết Song.
 chôn  cất.  Theo  lệ  nhà  vua,  đám  tang  của  dân  thường
             Do vậy, khi vào Huế, Bác học tiếng Pháp rất giỏi. Ông
 không được khiêng quan tài qua cửa thành mà phải cho
             Phạm Gia Cận, quê ở Đức Thọ, Hà Tĩnh lúc ấy cùng học
 xuống thuyền chui qua cống đi ra bằng đường thủy.
             một lớp với Bác ở Huế kể lại rằng: Có lần thầy giáo ra
 Đám  tang  bà  Hoàng  Thị  Loan  có  không  quá  chục
             một bài văn chữ Pháp để học trò dịch ra quốc ngữ, trong
 người đưa tiễn và chỉ có Bác là người thân duy nhất đi sau
             đó có câu:
 quan tài của mẹ. Thi hài đưa xuống thuyền ở sông Ngự
                 Oh chat! Oh chat! Vous voulez manger le rat, montez
 Hà, luồn qua cống Thanh Long ra Hộ Thành Hà (nay gọi
             sur la poutre!
 là sông Đông Ba) chui qua cầu Hàm Tế ra sông Gia Hội về
                 Bác đã dịch thành văn lục bát:
 sông Hương rồi mới khiêng bộ để chôn cất trên chân núi
                              Con mèo, Con mẻo, Con meo
 Tam Tầng thuộc dãy Ngự Bình.
                           Muốn bắt con chuột thì leo lên xà.
 Những năm tuổi thơ ở Huế của cậu bé Sinh Cung thật
                 Ông  hiệu  trưởng  rất  khen  ngợi  và  đem  bài  văn  của
 vô cùng cơ cực. Cha, anh đi vắng, ông bà ở xa, mẹ mất,
             Bác đọc cho cả lớp nghe.
 một  mình  ở  tuổi  lên  mười,  thiếu  cơm,  rách  áo  lại  phải
                 Vào Huế, Bác học năm cuối trường tiểu học và trúng
 nuôi em trai mới sinh. Hàng ngày Bác phải đi xin sữa, xin
             tuyển vào Trường Quốc học Huế. Ngày ấy cổng trường có
 cháo  nuôi  em  và  xin  cơm  cho  chính  mình.  Cả  tháng
             đắp nổi tên trường "Pháp tự Quốc học trường môn". Bác
 dường như bếp nhà không đỏ lửa. Thấy cảnh đó ai cũng   nổi  tiếng  là  một  học  sinh  thông  minh,  học  giỏi.  Chính


    33        34
   31   32   33   34   35   36   37   38   39   40   41