Page 104 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 104

dân, mới lên ba tuổi đã mồ côi cha, lên bốn tuổi                                     huyện Phú Vang, Huế. Tại đây, ông dạy chữ Hán
                 mồ côi mẹ, từ nhỏ đã chịu khó làm lụng và ham                                        cho một số học sinh trong vùng và hai con. Với trí
                 học. Vì vậy, ông Nguyễn Sinh Sắc được cụ Hoàng                                       thông minh, các bài học cậu Cung chỉ đọc ba, bốn
                 Đường  ở làng Hoàng  Trù xin  về nuôi dạy. Ông                                       lần là thuộc. Năm 1901, bà Loan lâm bệnh và qua

                 vừa lao  động, vừa tiếp tục học tập. Khi trưởng                                      đời, hai anh em Khiêm và Cung được cha đưa về
                 thành, ông kết hôn với người con gái đầu của cụ                                      Nghệ An, gửi bà ngoại chăm sóc. Tại quê, Nguyễn
                 Hoàng Đường là bà Hoàng Thị Loan, một phụ nữ                                         Sinh Cung học chữ Hán với thầy Hoàng  Phan
                 cần cù, chịu khó, đảm đang, đôn hậu, sống bằng                                       Quỳnh. Cũng năm 1901, ông Sắc vào Kinh đô Huế
                 nghề làm ruộng và dệt vải. Bà hết lòng thương                                        dự khoa thi Hội,  đậu Phó bảng, nhưng không
                 yêu và chăm lo cho chồng con ăn học. Ông Sắc và                                      muốn ra làm quan. Tuy  đỗ  đạt, nhưng gia  đình
                 bà Loan có ba người con: con gái cả là Nguyễn Thị                                    vẫn sống thanh bạch,  đạm bạc.  Ở quê, ông Sắc
                 Thanh, con trai thứ hai là Nguyễn Sinh Khiêm,                                        làm lễ “vào làng” cho hai con trai, ghi tên Nguyễn
                 con thứ ba là Nguyễn Sinh Cung - tên lúc nhỏ của                                     Sinh Khiêm là Nguyễn Tất  Đạt, Nguyễn Sinh
                 Chủ tịch Hồ Chí Minh. Là một thiếu niên thông                                        Cung là Nguyễn Tất Thành. Đối với các con, ông
                 minh, cậu Cung thích nghe chuyện và hay  hỏi                                         thường dặn, phải siêng năng học tập, “chớ lấy
                 những điều mới lạ. Điều đã biết, cậu nhớ rất lâu,                                    phong cách nhà quan làm phong cách nhà mình”.
                 đặc biệt là những lời dạy bảo của cha, những                                         Để các con nhớ, ông viết câu ấy lên xà nhà. Sau

                 chuyện cổ tích, ca dao, dân ca mà bà ngoại và mẹ                                     đó, Nguyễn Tất Thành được cha gửi học chữ Hán
                 thường kể và hát cho nghe.                                                           với thầy Vương Thúc Quý, người cùng làng, một
                     Năm 1891, ông Sắc dự thi  Hương  đậu Nhị                                         “sĩ tử Cần Vương”. Nhà thầy là nơi các sĩ phu yêu
                 trường và mở lớp dạy học ngay tại nhà để có điều                                     nước thường lui tới, trong đó có các ông Phan Bội
                 kiện dạy dỗ  con cái. Năm 1894, ông dự khoa  thi                                     Châu, Đặng Thái Thân, v.v.. Những hôm nhà có
                 Hương đậu Cử nhân. Giữa năm 1895, ông Sắc vào                                        khách, Nguyễn Tất Thành thường được thầy lưu
                 Kinh đô Huế dự kỳ thi Hội, nhưng không đỗ, rồi                                       lại giúp việc, nhờ đó cậu được nghe nhiều chuyện
                 xin vào học Trường Quốc Tử Giám để chuẩn bị cho                                      qua các buổi luận  đàm thời cuộc của các  sĩ phu
                 kỳ thi sau. Được tiếp nhận, ông về quê đưa vợ và                                     yêu nước, bước đầu tiếp thu tư tưởng yêu nước của
                 hai con trai cùng vào Huế. Cuối năm 1898, ông Sắc                                    các bậc cha chú thông qua mối quan hệ giữa cha

                 cùng hai con  về làng  Dương Nỗ, xã  Phú Dương,                                      với các sĩ phu trong  vùng. Nguyễn Tất Thành

                                                                 103                                    104
   99   100   101   102   103   104   105   106   107   108   109