Page 919 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 919
Từ những số liệu trên cho thấy, vai trò to lớn của trí thức trong việc nghiên
cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiến bộ nhằm nâng cao năng suất
lao động và hiệu quả kinh tế. Sự phát triển của đội ngũ tri thức diễn ra ở tất cả
các mặt. Trong hệ thống chính trị, trí thức chiếm một tỷ lệ lớn trong đội ngũ
lãnh đạo quản lý nhất là ở cấp tỉnh thành và trung ương. Nhìn chung, đội ngũ trí
thức nước ta có truyền thống yêu nước, có tinh thần đoàn kết dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Truyền thống đó được tiếp tục phát huy trong thời kỳ mới. Trong đội
ngũ trí thức, đang diễn ra quá trình biến đổi nhanh chóng về cơ cấu lượng và
chất, phong phú về cơ cấu ngành nghề, về thành phần xã hội, giai cấp, xuất thân,
sự phân hóa về thu nhập, phân hóa giàu nghèo, văn hóa, phân hóa về lối sống, về
quan điểm tư tưởng... Một số trí thức, đồng thời là những doanh nghiệp năng
động, những chủ trang trại, đa phần tri thức là người trung lưu. Số đông trí thức
yêu nước tán thành lý tưởng chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của đất nước, sự phát triển của đội ngũ
trí thức Việt Nam còn gặp nhiều hạn chế. Việt Nam đang thiếu các nhà lãnh đạo
quản lý tầm cỡ, các chuyên gia giỏi, các nhà khoa học thực sự tâm huyết với
nghề, các công chức trong bộ máy chính quyền các cấp tinh thông nghề nghiệp
và đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao về đạo đức công vụ. Chính vì vậy, các chủ
trương chính sách của Đảng cần tạo điều kiện để trí thức có thể làm tốt các
chứng năng phê phán, phản biện, phát hiện và dự báo tương lai. Đó là yếu tố tác
động trực tiếp, quyết định đến hiệu quả lao động khoa học của trí thức.
Mặt khác, bản thân người trí thức cũng phải tự đổi mới cả trong nhận thức
cũng như trong hoạt động sáng tạo. Người trí thức ngoài việc nâng cao trình độ
chuyên môn, cần phải rèn luyện cho mình một ý thức trách nhiệm cao, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, tác phong làm việc khoa học, chủ động vươn lên, trở
thành người chiến sỹ tiên phong, “dấn thân” vì Tổ quốc.
Sự “dấn thân” ở đây phải được duy trì và phát huy mọi lúc, mọi nơi, mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều này đòi hỏi người trí thức phải luôn tu dưỡng,
rèn luyện hằng ngày, thông qua quá trình phấn đấu không ngừng, biết vận dụng
lý thuyết khoa học vào thực tiễn, sáng tạo trên tinh thần phục vụ quần chúng
nhân dân. Chính vì thế, trí thức Việt Nam cần nhận thấy rõ trách nhiệm của
mình để không ngừng học tập, rèn luyện, nghiên cứu, áp dụng những thành tựu
khoa học công nghệ và dần dần trở thành một lực lượng không thể thiếu trong
xã hội.
Ngày nay, quá trình nghiên cứu ra tri thức mới diễn ra với tốc độ hết sức
nhanh chóng, việc sử dụng kiến thức khoa học công nghệ vào sản xuất trở thành
nhu cầu thiết yếu của xã hội. Do tốc độ biến đổi nhanh như vậy, cho nên nội
dung nghề nghiệp của người lao động cũng thường xuyên biến đổi. Người trí
thức trong xã hội, nếu không biết tự “học tập suốt đời”, sẽ bị lạc hậu trong chính
công việc của mình và với thế giới xung quanh. Trí thức nếu không dám mạnh
917