Page 168 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 168
để điều chỉnh “vĩ mô” các vấn đề lợi ích, chủ quyền Về chính sách và luật pháp quốc gia liên quan
và quyền hạn pháp lý ở những khu vực thiết lập tới quy hoạch và lập kế hoạch quản lý khu bảo tồn
khu bảo tồn biển của các quốc gia. Bởi lẽ, theo định biển, Chính phủ đã phê chuẩn, ban hành Chiến
nghĩa: “Khu bảo tồn biển là một vùng biển được lược Bảo tồn quốc gia (1985); Kế hoạch quốc gia về
dành riêng cho việc bảo vệ và gìn giữ tính đa dạng môi trường và phát triển bền vững (1991 - 2000);
sinh học, tài nguyên thiên nhiên và các giá trị văn Luật bảo vệ môi trường (1993, 2004, 2014, 2020);
hóa đi kèm, được quản lý bằng luật pháp hoặc các Luật đa dạng sinh học (2009); Luật biển Việt Nam
biện pháp hiệu quả khác”. (2012); Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
Chính vì thế, các quốc gia, trong đó có Việt Nam, (2015),... Các văn bản pháp quy về bảo vệ nguồn lợi
đã ký hoặc tham gia các thỏa thuận quốc tế liên thủy sản, bao gồm: các nghị định, pháp lệnh bảo vệ
quan tới bảo vệ môi trường và tài nguyên biển - và phát triển nguồn lợi thủy sản (1989); Luật thủy
những công cụ bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích sản (2003, 2017); Quy chế thành lập và quản lý khu
của nước ta trên biển. Đó là: Công ước của Liên bảo tồn biển (2007) trên cơ sở tôn trọng lợi ích cộng
hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS); Công ước đồng, thực tiễn Việt Nam, tiêu chuẩn kỹ thuật và
MARPOL 73/78 về ngăn ngừa ô nhiễm dầu từ tàu phù hợp pháp luật quốc tế liên quan nói trên.
hàng hải; Công ước RAMSAR về quản lý các vùng Mặc dù các chính sách, quy chế quản lý môi
đất ngập nước có tầm quan trọng quốc gia và quốc trường và tài nguyên ở các khu bảo tồn biển quốc
tế; Công ước BASEL về kiểm soát, vận chuyển các gia, cũng như luật pháp và chính sách quốc gia liên
chất thải độc hại xuyên biên giới; Công ước thương quan được ban hành nhiều nhưng vẫn còn chồng
mại quốc tế đối với các loài hoang dã đang bị đe dọa chéo và rơi vào tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu”,
(CITES); Công ước Đa dạng sinh học (CBD); Chính thậm chí gia tăng “dẫm chân lên nhau” giữa các bộ,
sách của IUCN về các khu bảo tồn biển, các văn ngành và địa phương về thẩm quyền quản lý nhà
kiện của Hội nghị Thượng đỉnh về môi trường và nước đối với khu bảo tồn biển. Ngoài ra, trong một
phát triển, trong đó có Cam kết toàn cầu về quản thời gian dài, ở nước ta thiếu hẳn một thiết chế tổ
lý các khu bảo tồn biển hiệu quả đến năm 2012 để chức hợp lý và hiệu quả liên quan đến việc thiết lập
thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ và quản lý các khu bảo tồn biển. Đây là trở ngại lớn
(MDGs), và Kế hoạch hành động khu vực (RAP) về nhất ngay từ quá trình quy hoạch đến tiến trình
xây dựng một mạng lưới các khu bảo tồn biển hiệu thiết lập và quản lý các khu bảo tồn biển ở nước ta
quả ở khu vực Đông Nam Á giai đoạn 2002 - 2012. thời gian qua và cả thời gian sắp tới.
166 167