Page 169 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 169

để điều chỉnh “vĩ mô” các vấn đề lợi ích, chủ quyền   Về chính sách và luật pháp quốc gia liên quan
 và quyền hạn pháp lý ở những khu vực thiết lập   tới quy hoạch và lập kế hoạch quản lý khu bảo tồn

 khu bảo tồn biển của các quốc gia. Bởi lẽ, theo định   biển,  Chính  phủ  đã  phê  chuẩn,  ban  hành  Chiến
 nghĩa: “Khu bảo tồn biển là một vùng biển được   lược Bảo tồn quốc gia (1985); Kế hoạch quốc gia về
 dành riêng cho việc bảo vệ và gìn giữ tính đa dạng   môi trường và phát triển bền vững (1991 - 2000);
 sinh học, tài nguyên thiên nhiên và các giá trị văn   Luật bảo vệ môi trường (1993, 2004, 2014, 2020);
 hóa đi kèm, được quản lý bằng luật pháp hoặc các   Luật đa dạng sinh học (2009); Luật biển Việt Nam
 biện pháp hiệu quả khác”.  (2012); Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
 Chính vì thế, các quốc gia, trong đó có Việt Nam,   (2015),... Các văn bản pháp quy về bảo vệ nguồn lợi
 đã ký hoặc tham gia các thỏa thuận quốc tế liên   thủy sản, bao gồm: các nghị định, pháp lệnh bảo vệ
 quan tới bảo vệ môi trường và tài nguyên biển -   và phát triển nguồn lợi thủy sản (1989); Luật thủy
 những công cụ bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích   sản (2003, 2017); Quy chế thành lập và quản lý khu
 của nước ta trên biển. Đó là: Công ước của Liên   bảo tồn biển (2007) trên cơ sở tôn trọng lợi ích cộng
 hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS); Công ước   đồng, thực tiễn Việt Nam, tiêu chuẩn kỹ thuật và
 MARPOL 73/78 về ngăn ngừa ô nhiễm dầu từ tàu   phù hợp pháp luật quốc tế liên quan nói trên.
 hàng hải; Công ước RAMSAR về quản lý các vùng   Mặc dù các chính sách, quy chế quản lý môi
 đất ngập nước có tầm quan trọng quốc gia và quốc   trường và tài nguyên ở các khu bảo tồn biển quốc
 tế; Công ước BASEL về kiểm soát, vận chuyển các   gia, cũng như luật pháp và chính sách quốc gia liên
 chất thải độc hại xuyên biên giới; Công ước thương   quan được ban hành nhiều nhưng vẫn còn chồng

 mại quốc tế đối với các loài hoang dã đang bị đe dọa   chéo và rơi vào tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu”,
 (CITES); Công ước Đa dạng sinh học (CBD); Chính   thậm chí gia tăng “dẫm chân lên nhau” giữa các bộ,
 sách của IUCN về các khu bảo tồn biển, các văn   ngành và địa phương về thẩm quyền quản lý nhà
 kiện của Hội nghị Thượng đỉnh về môi trường và   nước đối với khu bảo tồn biển. Ngoài ra, trong một
 phát triển, trong đó có Cam kết toàn cầu về quản   thời gian dài, ở nước ta thiếu hẳn một thiết chế tổ
 lý các khu bảo tồn biển hiệu quả đến năm 2012 để   chức hợp lý và hiệu quả liên quan đến việc thiết lập
 thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ   và quản lý các khu bảo tồn biển. Đây là trở ngại lớn
 (MDGs), và Kế hoạch hành động khu vực (RAP) về   nhất ngay từ quá trình quy hoạch đến tiến trình
 xây dựng một mạng lưới các khu bảo tồn biển hiệu   thiết lập và quản lý các khu bảo tồn biển ở nước ta
 quả ở khu vực Đông Nam Á giai đoạn 2002 - 2012.  thời gian qua và cả thời gian sắp tới.


 166                                                      167
   164   165   166   167   168   169   170   171   172   173   174