Page 95 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 95
Phần thứ nhất: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Bốn là, ký ban hành Sắc lệnh số 17, số 19 và số 20 ngày 8/9/1945 về
thành lập Ban bình dân học vụ, thiết lập lớp học bình dân cho nông dân thợ
thuyền và bắt buộc học chữ Quốc ngữ.
Bên cạnh việc đối phó với “giặc đói”, Chính phủ còn phải quyết liệt đấu
tranh với “giặc dốt”. Ngay trong buổi họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ
vào ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra sáu việc cấp bách, trong đó,
việc chống nạn mù chữ xếp thứ hai, chỉ sau nạn đói. Người nói: “Một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn
mù chữ” . Để chăm lo cho hạnh phúc lâu dài của nhân dân thì nhất thiết
1
phải xóa nạn mù chữ. Thay mặt Chủ tịch Chính phủ lâm thời, Bộ trưởng
Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký ban hành Sắc lệnh số 17 ngày 8/9/1945.
Sắc lệnh số 17 làm bùng lên phong trào “bình dân học vụ” diễn ra rộng khắp
từ thành thị đến nông thôn; những lớp học chữ mọc lên khắp mọi nơi, người
biết chữ làm giáo viên không lương, người dân đi học để thoát cảnh không
thể viết tên mình.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp cũng ký ban hành Sắc lệnh số 19
ngày 8/9/1945 với nội dung gồm ba khoản, trong đó, khoản II quy định:
“Trong hạn sáu tháng, làng nào và đô thị nào cũng đã phải là một lớp học
dạy được ít nhất là ba mươi người”. Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp còn ký ban
hành Sắc lệnh số 20 về việc thiết lập những lớp học bình dân buổi tối cho
nông dân và thợ thuyền; trong đó quy định “bắt buộc học chữ quốc ngữ và
không phải mất tiền cho tất cả mọi người”.
Kết quả của phong trào bình dân học vụ vượt trên cả sự mong đợi. Theo
sách Việt Nam chống nạn thất học của Nhà xuất bản Giáo dục năm 1980,
chỉ trong một năm (8/1945 - 8/1946), phong trào bình dân học vụ đã xóa mù
chữ cho hơn 2,5 triệu người, phát triển được gần 96.000 giáo viên, mở được
gần 75.000 lớp học. Sau 5 năm (đến 30/6/1950), gần 12,2 triệu người biết
chữ. 10 tỉnh với 80 huyện, hơn 1.400 xã và 7.200 thôn được công nhận thanh
toán nạn mù chữ.
Có thể khẳng định rằng, Sắc lệnh số 17, Sắc lệnh số 19 và Sắc lệnh số 20
của Chủ tịch Chính phủ lâm thời ngày 8/9/1945 là những văn bản pháp
chế hành chính rất quan trọng, góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.7.
93