Page 262 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 262
đều có trách nhiệm giúp đỡ huấn luyện lực lượng vũ trang địa
phương và giúp cho dân quân “quen với tiếng súng”, nghiên cứu và
giúp đỡ các địa phương xây dựng làng chiến đấu (khi đó còn gọi là
làng kháng chiến) theo kinh nghiệm của Bắc Ninh, Kiến An, kinh
nghiệm hoạt động của lực lượng biệt động Thừa Thiên, Quảng Trị,
của dân quân Hậu Giang... Về vũ khí cho dân quân, ngay sau Hội
nghị Chúc Sơn, Cục trưởng Trần Đại Nghĩa rất quan tâm chỉ đạo
phát huy vai trò của các công binh xưởng, các lò rèn ở thôn xã để
đẩy mạnh sản xuất vũ khí thô sơ (đại đao, lựu đạn, súng kíp, địa
lôi, tên nỏ...) để tăng cường trang bị cho dân quân. Được thư động
viên của Tổng Chỉ huy, anh em công nhân quân giới rất say sưa
với việc sản xuất vũ khí thô sơ trước yêu cầu phát triển bước đầu
của dân quân, du kích. Như cách diễn đạt của Cục trưởng Quân
giới Trần Đại Nghĩa trong hội nghị lần thứ ba của ngành quân giới
(12/2/1948), tư tưởng chỉ đạo “đi hai chân” (du kích và chính quy)
của Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp “đã thấm vào từng bánh răng
cưa của ngành quân giới”.
Hội nghị dân quân toàn quốc lần thứ nhất diễn ra trong bối
cảnh, theo đề nghị của Quân ủy, Chính phủ đã quyết định đổi Bộ
Quốc phòng - Tổng Chỉ huy Quân đội quốc gia thành Bộ Quốc
phòng - Tổng Chỉ huy Quân đội quốc gia và dân quân, tự vệ Việt Nam.
Các phòng Dân quân đã được thành lập tại các địa phương, hệ
thống chỉ huy của các tỉnh đội, huyện đội, xã đội dân quân đã
từng bước hình thành; Trung ương Đảng đã có nghị quyết về việc
các địa phương phải cử cán bộ có năng lực đảm nhiệm phong trào
dân quân. Trước đó hai tháng, trong báo cáo quân sự của Bộ Tổng
chỉ huy tại Hội nghị quân sự Tiên Kiên, nhận thức về lực lượng
vũ trang địa phương đã có một bước phát triển mới, đó là sự phân
biệt giữa bộ đội chính quy (chủ lực) với du kích địa phương thoát
ly sản xuất và dân quân tự vệ không thoát ly sản xuất. Trước kia,
dân quân tự vệ là những tổ chức vũ trang quần chúng do các
260