Page 887 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 887
hoặc thắng lợi đều không được chủ quan khinh địch. Khi giao
nhiệm vụ, ông thường khuyến khích cán bộ nói hết những điều khó
khăn, vướng mắc, không những nhằm đánh giá trình độ cán bộ
quán triệt nhiệm vụ như thế nào mà còn giúp tìm biện pháp giải
quyết thỏa đáng những vấn đề tồn tại để đảm bảo thắng lợi cho
chiến dịch. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp ông đều
động viên được cán bộ nói hết những điều chưa “thông” của mình.
Khi nghe và thảo luận kế hoạch tác chiến trong Hội nghị Thẩm
Púa (Chiến dịch Điện Biên Phủ), có những cán bộ không tin rằng
chiến dịch có thể giành thắng lợi bằng cách “đánh nhanh giải
quyết nhanh”, nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên cán bộ chưa nói
hết những điều muốn nói.
Trong việc giao nhiệm vụ trước khi bước vào chiến dịch
(hoặc trong quá trình diễn biến của chiến dịch), Tổng Tư lệnh
thường căn cứ vào điều kiện và sở trường của từng đại đoàn,
từng trung đoàn. Đánh cụm cứ điểm Đông Khê (trong Chiến
dịch Biên giới), ngoài Trung đoàn 209, ông chỉ định đơn vị đã
từng tiêu diệt Đông Khê lần 1, đó là Trung đoàn 174; đánh địch
vận động ở Xuân Trạch (trong Chiến dịch Trần Hưng Đạo) hay
đánh viện binh địch trên hướng Ba Vì (trong Chiến dịch Hoà
Bình), ông giao cho Đại đoàn 312; cơ động về đánh địch ở Phú
Thọ (trong Chiến dịch Tây Bắc) hoặc bôn tập đến cắm chốt ở Tây
Trang (đề phòng địch rút chạy sang Thượng Lào trước khi ta nổ
súng ở Điện Biên Phủ), ông giao cho Trung đoàn 36 là trung
đoàn có sở trường về cơ động nhanh; chuyển hướng sang Thượng
Lào (dọc sông Nậm Hu - sau khi thay đổi phương châm trong
Chiến dịch Điện Biên Phủ) ông giao cho Đại đoàn 308, không chỉ
vì đại đoàn này đang đứng chân ở hướng tây cánh đồng Mường
Thanh, tiện lật cánh, mà còn vì khả năng chiến đấu của Đại
đoàn Quân Tiên phong và tác phong chỉ huy “quân lệnh như
sơn” của Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ, v.v..
885