Page 882 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 882
lực lượng ứng chiến quy mô lớn, khác hẳn chiến trường rừng núi.
Về phía ta, chiến thắng Biên giới nói lên một thực tế là bộ đội ta đã
trưởng thành cả về đánh công kiên và vận động, trang bị đã được
cải tiến, nhưng sức mạnh của chủ lực ta là sức mạnh có điều kiện.
Sức mạnh đó chỉ có thể phát huy đầy đủ trong cách đánh sở trường
là đánh đêm, trên chiến trường thuận lợi và quen thuộc là chiến
trường rừng núi. Do chậm phát hiện thực tế đó, sau Chiến dịch
Trung du, Tổng Quân ủy và Tổng Tư lệnh mở tiếp hai chiến dịch
trên hướng vùng mỏ Đông Bắc và vùng chiêm trũng Hà - Nam -
Ninh, chiến trường rất xa, thời tiết và nhất là địa hình không
thuận lợi. Như vậy là chỉ trong vòng sáu tháng (12/1950 - 6/1951)
Tổng Quân ủy mở liên tiếp ba chiến dịch trong điều kiện không
thuận lợi, cường độ hành quân chiến đấu rất cao, lại thêm thương
vong, khiến sức chiến đấu của bộ đội giảm.
Bước vào mùa khô năm 1951, giữa lúc ta đang lúng túng trong
việc chọn phương hướng mở chiến dịch thì Tổng Chỉ huy Đờlát
mang binh lực lớn ra bên ngoài phòng tuyến boongke, đánh chiếm
vùng Hòa Bình - sông Đà - đường số 6. Địch đã tạo cho ta một cơ
hội bằng vàng - như cách nói của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp.
Kịp thời và triệt để lợi dụng sai lầm của địch, ta đã giành thắng lợi
lớn trong đông - xuân 1951 - 1952. Và chỉ sau thắng lợi to lớn của
Chiến dịch Hòa Bình, hướng mở chiến dịch tiến công của các đại
đoàn chủ lực mới được khẳng định và chuyển lên vùng rừng núi
Tây Bắc, Thượng - Trung - Hạ Lào và Tây Nguyên và cũng từ đó
cho đến khi kết thúc chiến tranh quân ta đã liên tiếp giành những
thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng.
Chuẩn bị chiến trường cho các chiến dịch lớn trong điều kiện
thực tế của ta hồi đó (chủ yếu dựa vào sức mạnh của cơ bắp) đòi
hỏi rất nhiều công sức và thời gian. Điều đó giải thích vì sao Tổng
Tư lệnh luôn quan tâm tạo điều kiện cho các cơ quan quân sự Tổng
hành dinh và các đại đoàn có đủ thời gian chuẩn bị chiến trường.
880