Page 358 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 358

Về kiều hối, thành phố thành lập một công ty kiều hối để thu

            đổi kiều hối của hàng ngàn, hàng vạn gia đình có người thân ở nước
            ngoài gửi về với tỷ giá thỏa đáng.
                Về lương thực, mỗi tháng (thời điểm năm 1978-1979), thành

            phố tiêu thụ khoảng 40.000-45.000 tấn, nhưng Trung ương chỉ cung
            cấp khoảng 30.000 tấn. Trong khi đó, lương thực hàng hóa (sau khi
            làm nghĩa vụ với Nhà nước) ở đồng bằng sông Cửu Long còn nhiều;

            nông dân cũng cần bán số lương thực này để mua hàng tiêu dùng,
            phân bón, thuốc trừ sâu phục vụ sản xuất và đời sống.
                Thời gian đó, đích thân Bí thư Thành ủy Sáu Dân đã cùng Công

            ty Lương thực thành phố do chị Ba Thi làm giám đốc, xuống tỉnh
            Bạc Liêu gặp Tỉnh ủy, rồi Huyện ủy Giá Rai (nơi còn nhiều lúa) bàn
            việc mua số lương thực thừa này, sau đó giao cho Công ty Lương
            thực thành phố tổ chức vận chuyển về thành phố và bán trực tiếp

            cho nhân dân thông qua hàng ngàn điểm bán ở khu phố, tổ dân phố.
            Nhờ đó mà bảo đảm và ổn định việc phân phối lương thực cho nhân
            dân thành phố.


                                              *
                                            *     *
                Tháng 8/1979, anh Sáu Dân ra Hà Nội họp. Đầu tiên, anh dự

            họp Bộ Chính trị, sau đó họp Ban Chấp hành Trung ương lần thứ
            sáu (khóa IV) về Tình hình và nhiệm vụ cấp bách với yêu cầu: “Tình
            hình kinh tế và đời sống nhân dân đang có nhiều khó khăn, Đảng và
            Nhà nước phải có những chủ trương và biện pháp cấp bách, mạnh
            mẽ, kiên quyết, đem lại hiệu quả thiết thực nhằm đẩy mạnh sản

            xuất và bảo đảm đời sống nhân dân, khắc phục những mặt tiêu cực
            trong hoạt động kinh tế và xã hội...” .
                                                 1

                1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị
            quốc gia, Hà Nội, 2005, t.40, tr.359.

            356
   353   354   355   356   357   358   359   360   361   362   363