Page 124 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 124

thiên nhiên hoang sơ, khắc nghiệt đầy thú dữ. Khi định hình vững chắc và đặt
                      quyền làm chủ trên vùng đất Gia Định từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX,
                      người Việt từ rất sớm đã đấu tranh chống lại những thế lực xâm lược để bảo vệ

                      vùng đất mới. Đầu năm 1859, thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn, nhân dân Sài
                      Gòn - Gia Định và Nam Kỳ đã nổi dậy chống Pháp bằng cả trái tim và khối óc
                      của mình. Thực dân Pháp đã đặt ách cai trị lên Sài Gòn từ năm 1862 đến đầu thế
                      kỷ XX, trong khoảng nửa thế kỷ, nhiều cuộc khởi nghĩa, đấu tranh của nhân dân
                      Sài Gòn - Nam Kỳ diễn ra liên tục, nối tiếp nhau không ngớt. Một cuộc khởi
                      nghĩa vừa bị giặc Pháp dập tắt, không lâu sau lại có cuộc khởi nghĩa khác nổ ra.
                      Mở đầu là cuộc khởi nghĩa của Trương Định với khí thế chống Pháp kiên cường,
                      anh dũng, “tầm vóc cuộc khởi nghĩa trở thành ngọn cờ tiêu biểu trong phong
                                                   1
                      trào chống Pháp buổi đầu”  của nhân dân Sài Gòn - Nam Kỳ. Quần chúng nhân
                      dân chiến đấu với lòng yêu nước cao độ, với khí phách hiên ngang, bất khuất,
                      chống giặc đến hơi thở cuối cùng. Đặt chân lên Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành tìm
                      đến mảnh đất có phong trào yêu nước phát triển sôi nổi, mạnh mẽ, rộng khắp.

                      Những ngày sống, làm việc, lưu lại ở Sài Gòn, chắc hẳn, Nguyễn Tất Thành cảm
                      nhận, thấu hiểu sâu sắc tinh thần yêu nước, khát vọng đấu tranh giành độc lập,
                      tự do của nhân dân. Có thể, Người cũng nghe thuật lại câu nói đanh thép của
                      một  thủ  lĩnh  trong  phong  trào  yêu  nước  Nam  Kỳ  khẳng  khái  trước  thực  dân
                                                                                                          2
                      Pháp “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây” .
                      Khí phách  hiên  ngang, tinh thần đấu  tranh  chống  ngoại  xâm  kiên  cường,  bất
                      khuất và sự thất bại đau đớn, đẫm máu, bế tắc không lối ra từ phong trào yêu
                      nước chống Pháp của nhân dân Sài Gòn - Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
                      XX đã thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước mãnh liệt trong Nguyễn Tất Thành và
                      thúc đẩy mạnh mẽ ý chí quyết tâm ra đi, tìm con đường giải cứu nhân dân, giải

                      phóng đất nước của Người. Mảnh đất Sài Gòn đã tiếp thêm sức mạnh, củng cố
                      vững chắc định hướng của Nguyễn Tất Thành với mục đích: “Tôi muốn đi ra
                      ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ
                                                         3
                      trở về giúp đồng bào chúng ta” . Đây là hành trang quan trọng, quý giá và là
                      động lực to lớn thôi thúc Người dấn thân vào cuộc hành trình vĩ đại của dân tộc.
                            Rời Phan Thiết, Nguyễn Tất Thành di chuyển vào Sài Gòn cũng với mong
                      muốn tìm hiểu một trung tâm công nghiệp lớn, một “công xưởng” sôi động của
                      Việt Nam và Đông Dương đầu thế kỷ XX; nơi có giai cấp công nhân ra đời rất
                      sớm và phát triển nhanh chóng về số lượng, trưởng thành về chất lượng. “Năm
                      1906, số công nhân ở Sài Gòn đã lên đến khoảng 25.000 người, trong đó có cả
                      __________
                            1. Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế ký XIX (1802-1884), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999,
                      tr. 290.
                            2. Câu nói nổi tiếng của Nguyễn Trung Trực (1838-1868), thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa
                      chống thực dân Pháp vào nửa cuối thế kỷ XIX ở Nam Bộ- Việt Nam.
                            3. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 1, tr. 28.


                                                               122
   119   120   121   122   123   124   125   126   127   128   129