Page 526 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 526
giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản
1
cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền” .
Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh không hề đối lập với tinh
thần yêu chuộng hòa bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam mà là sự
tiếp nối truyền thống nhân nghĩa của cha ông ta. Đối với Hồ Chí Minh, trong
cuộc đấu tranh chính nghĩa để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, việc sử
dụng bạo lực cũng nhằm mục đích hòa bình. Theo Người, hòa bình phải là nền
hòa bình thật sự, gắn liền với độc lập, chủ quyền của Tổ quốc và tự do, dân chủ
của nhân dân. Nếu mục tiêu đó không được đáp ứng, phương thức tiến hành
chiến tranh tất yếu là bạo lực cách mạng. Đó chính là nghệ thuật khéo léo dùng
bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Người.
Tuy đề cao vai trò của bạo lực cách mạng nhưng Hồ Chí Minh không tuyệt
đối hóa vai trò của bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh cách mạng.
Người luôn xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con
người, Hồ Chí Minh luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu.
Người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải
quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình, chủ động đàm phán, thương lượng,
chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc.
Việc tiến hành các hội nghị Việt - Pháp và ký các hiệp định trong năm
1946 là thể hiện tư tưởng nhân đạo và hòa bình của Hồ Chí Minh. Theo Người,
tinh thần thiện chí của Việt Nam khi ký hiệp ước còn giá trị hơn mọi văn bản và
lời nói, vì chúng ta bảo đảm những lợi ích tinh thần, văn hóa và vật chất của
Pháp, và ngược lại, Pháp phải bảo đảm nền độc lập của chúng ta. Một chữ “Độc
lập” là đủ để đưa lại một sự tín nhiệm đang cần được khẳng định. “Tôi không
muốn trở về Hà Nội tay không. Tôi muốn khi trở về nước sẽ đem về cho nhân
dân Việt Nam những kết quả cụ thể với sự cộng tác chắc chắn mà chúng tôi
2
mong đợi ở nước Pháp” .
Sau khi miền Bắc nước ta được giải phóng, Người kiên trì yêu cầu đối
phương thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, thực hiện hiệp
thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà.
Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi
không còn khả năng thương lượng, hòa hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập
trường thực dân, chỉ muốn giành thắng lợi bằng quân sự, thì Hồ Chí Minh mới
kiên quyết phát động chiến tranh.
Trong khi tiến hành chiến tranh, Người vẫn tìm mọi cách vãn hồi hòa bình.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nhiều lần gửi thư cho Chính
phủ và nhân dân Pháp, cho tướng lĩnh, binh sĩ trong quân đội Pháp và những
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 12, tr. 304.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 279.
524