Page 55 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 55

Năm 1965, khi kể với nhà văn Mỹ Anna Louise Strong, Người cũng nói: “thấy
                      phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về
                                          1
                      giúp đồng bào tôi” . Vì vậy, theo chúng tôi, lúc này Người chỉ nhìn thấy sự bất
                      ổn trong phương pháp cứu nước của các bậc tiền bối, chứ chưa thể “vượt qua sự
                      hạn chế lịch sử”, và càng không thể “giải phóng chính mình khỏi những ảnh
                      hưởng của những tư tưởng chính trị truyền thống”, cũng như “không chịu ảnh
                      hưởng của tư tưởng dân tộc và dân chủ tư sản”. Nhận định như vậy, theo chúng
                      tôi, không những không đúng với thực tế lịch sử, mà còn không phản ánh đúng
                      lôgic sự phát triển trong nhận thức tư tưởng của Người. Những giá trị “Tự do -
                      Bình đẳng - Bác ái”của Đại cách mạng Pháp, ngoài tính chất giai cấp của nó,
                      còn có những giá trị nhân bản toàn nhân loại.
                            2. Với Hồ Chí Minh, năm 1923, khi trò chuyện với nhà báo, nhà thơ Nga
                      Osip Mandelstam, Người nói: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được
                      nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Tôi quyết định tìm cách đi ra
                                   2
                      nước ngoài” . Trong cuốn Hồ Chí Minh tiểu sử xác định, Người tiếp xúc lần đầu
                      với khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” vào khoảng tháng 9/1905, khi học
                                                                                      3
                      lớp dự bị Trường Tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh . Sau đó, khi Người
                      trở lại Huế lần thứ hai cùng cha (cuối tháng 5/1906), với những điều kiện cần
                      thiết đã giúp Người tìm hiểu, suy ngẫm hơn về những giá trị của Cách mạng tư
                      sản Pháp.
                            Trong  thời  gian  học  tại  trường  Quốc  học  Huế,  Hồ  Chí  Minh  có  cơ  hội
                      thuận lợi tìm hiểu về nền văn minh Pháp. Thầy dạy của Người lúc đó có cả thầy
                      người Pháp như: thầy Chouquet (Hiệu trưởng), thầy Queiguee (dạy Luận văn),
                      thầy Henri le Bis (dạy Toán), thầy Vaine le Bris (dạy Sử Địa) và cả các thầy
                      người Việt đã học ở Pháp như thầy Lê Văn Miến. Thầy Miến thường kể với học

                      trò rằng, ở Pháp “từ dân lao động cho chí các vị hàn lâm đều rất coi trọng những
                      người Việt Nam học giỏi và có tư cách. Trên đất Pháp lại có nhiều thư viện, đủ
                      các loại sách vở nói về các cuộc cách mạng của các nước trên thế giới, vào đọc
                                       4
                      không mất tiền” . Có lẽ chính từ điều này mà một số nhà nghiên cứu đã có lý khi
                      cho rằng: “Việc dạy dỗ của thầy là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành
                                                                                               5
                      tư tưởng sang Tây chứ không sang Đông của Chủ tịch Hồ Chí Minh” . Càng tiếp
                      thu những tư tưởng tiến bộ Tây Âu, Người càng khao khát muốn tìm hiểu sự

                      __________
                            1. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t. 1, tr. 30.
                            2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 461.
                            3. Song Thành, Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr. 37.
                            4. Theo Phạm Hồng Việt, Từ Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành đi tìm đường cứu nước, in trong
                      Kỷ yếu Hội thảo Nghiên cứu, xác minh tư liệu và di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ 1890-1911,
                      Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2008, tr. 234.
                            5. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Vàng trong lửa, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2009, tr.
                      54.


                                                                53
   50   51   52   53   54   55   56   57   58   59   60