Page 145 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 145

gian khổ, khó khăn để thực hiện hoài bão của mình. Thời điểm ấy, có nhiều trí
                      thức yêu nước cũng có mong muốn sang phương Tây, nhưng không phải ai cũng
                      dám chấp nhận dấn thân bằng con đường lao động cực khổ và đầy mạo hiểm đó.

                            Theo lời kể trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ
                      Chủ Tịch của tác giả Trần Dân Tiên: Trước ngày 02/6/1911, Nguyễn Tất Thành
                      bàn với một số người bạn thân về chuyến đi ra nước ngoài, “Khi người bạn hỏi
                      lấy đâu ra tiền mà đi, anh Thành vừa nói vừa giơ hai bàn tay: “Đây, tiền đây...
                                                                                                     1
                      Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi?” . Mặc
                      dù đã nhận lời, nhưng sau khi suy nghĩ kỹ, người bạn ấy đã không đủ can đảm
                      để thực hiện điều đó.
                            Sang phương Tây tìm đường cứu nước, hành trang lớn nhất của Nguyễn
                      Tất Thành lúc đó là tinh thần yêu nước cháy bỏng cùng sự am hiểu vốn văn hóa
                      phương Đông và bước đầu tìm hiểu văn hóa phương Tây. Đây là cơ sở và động
                      lực chủ yếu thúc đẩy cho sự lựa chọn đó của Nguyễn Tất Thành. Nếu không có
                      vốn hiểu biết đó, Anh không thể có đủ tự tin để có một quyết định như vậy, hoặc

                      nếu có thì đó sẽ đơn thuần là hành động ngẫu hứng mang tính phiêu lưu, mạo
                      hiểm mà thôi.
                            Chính nhờ cách đi rất riêng ấy, Nguyễn Tất Thành đã thấy được bản chất
                      thực sự của chủ nghĩa thực dân. Khi đặt chân lên đất Pháp, Anh thấy “Ở Pháp
                      cũng có người nghèo như bên ta”, “người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người
                      Pháp  ở  Đông  Dương” và  Anh  cũng đặt  câu  hỏi:  “Tại  sao người  Pháp  không
                                                                                         2
                      “khai hóa” đồng bào của họ trước khi đi “khai hóa” chúng ta” . Hình ảnh nước
                      Pháp để lại trong tâm trí Anh không phải là nước Pháp như trong Tuyên ngôn
                      nhân quyền và dân quyền của Đại cách mạng Pháp 1789, mà là một nước Pháp
                      có kẻ giàu, người nghèo, có người tốt, kẻ xấu.

                            Tới Mỹ, Anh cũng nhanh chóng phát hiện ra, đằng sau những tòa nhà chọc
                      trời với cuộc sống xa hoa của thành phố New York là những con người khốn
                      khổ sống vật vờ dưới bóng đổ của những tòa nhà đó. Anh thường xuyên lui tới
                      khu Harlem và rất xúc động trước cảnh sống thảm hại của những người da đen ở
                          3
                      đây . Tham quan tượng thần Tự do, Anh có nhận xét sâu sắc: “Ánh sáng trên
                      đầu tượng thần Tự do tỏa ra trên bầu trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự do
                      này thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen mới được bình đẳng
                                           4
                      với người da trắng” . Anh nhớ mãi hình ảnh những kẻ thực dân da trắng hành hạ
                      dã man những người da đen bằng cách thiêu sống họ cháy thành than. Anh căm
                      giận thốt lên: “Tất cả bọn đế quốc đều phản động và tàn ác”. Những cảnh tượng
                      __________
                            1. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn nghệ, Hà
                      Nội, 1955, tr. 13.
                            2. Trần Dân Tiên, Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr.17.
                            3. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t. 1, tr. 37.
                            4. Mai Văn Bộ, Con đường vạn dặm của Hồ Chí Minh, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 1999, tr. 62.


                                                               143
   140   141   142   143   144   145   146   147   148   149   150