Page 243 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 243

“Hồi đó nước chúng tôi đang ở dưới ách chủ nghĩa thực dân Pháp, bị bóc lột ghê
                      gớm và khổ sở vô cùng. Tôi biết rất ít về các vấn đề chính trị, nhưng tôi muốn
                      Tổ quốc tôi được giải phóng, các “dân tộc thuộc địa” được giải phóng. Tôi bắt
                      đầu viết và phát những truyền đơn tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp. Tôi chưa
                      biết đảng là gì, công đoàn là gì, càng không rõ chủ nghĩa xã hội khác chủ nghĩa

                      cộng sản ở chỗ nào. Nhưng có những “ông bà” - lúc đầu tôi gọi các đồng chí tôi
                      trong Đảng Xã hội như thế - đã tỏ đồng tình với tôi. Vì vậy, tôi đã tham gia
                                     1
                      Đảng Xã hội” . Chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc đến với Đảng Xã
                      hội, đến với Lênin, rồi sau đó là Quốc tế Cộng sản.
                            Ngày  18/6/1919,  khi  các  nước  đồng  minh  thắng  trận  họp  Hội  nghị
                      Versailles, tại Paris, thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái
                      Quốc gửi đến Hội nghị bản Yêu sách gồm 8 điểm, đòi Chính phủ Pháp phải thừa
                      nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bản
                      Yêu sách ngay lập tức được đăng tải trên nhiều tờ báo, được dịch ra nhiều thứ
                      tiếng khác nhau, được truyền phát rộng rãi ở nước Pháp, và đặc biệt được lưu
                      truyền rộng rãi trong cộng đồng Việt kiều đang sinh sống ở Pháp lúc đó. Đối với
                      người Pháp, họ cho rằng, bản Yêu sách đã làm chấn động dư luận nước Pháp,
                      được so sánh như một “quả bom đặt giữa những người Pháp ở Đông Dương”.
                      Khi về với người dân Việt Nam, nó được ví như tiếng sấm mùa xuân sẽ xua tan
                      màn sương mù vây bọc người dân thuộc địa, làm nảy sinh những mầm nằm sâu
                      trong lòng họ. Kể từ đây, đối với những người dân Việt Nam và những người
                      ủng hộ Việt Nam, cái tên Nguyễn Ái Quốc gắn liền với một niềm hy vọng mới;
                      đối với chính quyền thực dân Pháp, chúng kinh ngạc và cuối cùng ra lệnh điều
                      tra tung tích Nguyễn Ái Quốc và lập cơ quan chuyên trách theo dõi những hoạt
                      động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và Việt kiều yêu nước để áp dụng những
                      biện pháp ngăn chặn.
                            Báo L’Humanité số ra ngày 16 và 17/7/1920 đã đăng toàn văn bản Sơ thảo
                      lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.
                      Lênin.  Luận  cương  ngay  lập  tức  thu  hút  sự  chú  ý  đặc  biệt  của  anh  Nguyễn.
                      Người đã đọc đi đọc lại nhiều lần và cuối cùng, Người đã tìm thấy con đường để
                      giải phóng cho dân tộc khỏi ách áp bức thực dân. Sau này, khi trả lời một nhà
                      báo Pháp, Người đã kể lại: “Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó
                      hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần,  cuối  cùng tôi  cũng hiểu được phần
                      chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin
                      tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà
                      tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa
                      đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
                                                                                                     2
                      chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” , như
                      Người viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa
                      __________
                            1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 584.
                            2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 562.


                                                               241
   238   239   240   241   242   243   244   245   246   247   248