Page 259 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 259
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc thành lập đã
mở rộng tổ chức về trong nước, thành lập các Kỳ bộ, Tỉnh bộ và Chi bộ của
Hội tại nhiều địa phương. Tổng bộ - cơ quan Trung ương của Hội đã có chủ
trương “Vô sản hóa”, đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền và tổ
chức tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, gây dựng cơ sở trong giai cấp công
nhân còn non trẻ, tổ chức công nhân đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, và thực
hiện “ba cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với giai cấp cần lao để rèn luyện,
trưởng thành trong thực tế cuộc sống.
Đến nửa cuối năm 1929, tại Việt Nam, các tổ chức cộng sản là Đông
Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, sau đó là Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn được thành lập, phản ánh sự lớn mạnh của phong trào cách mạng
ở cả ba miền. Tuy nhiên, đã xuất hiện sự kèn cựa, tranh giành quần chúng, mâu
thuẫn giữa các tổ chức cộng sản. Mặc dù các tổ chức này cũng có động thái hợp
nhất hai lần nhưng đều không đi đến kết quả, do khác nhau về quan điểm, nhận
thức về vai trò, vị trí của từng tổ chức. Quốc tế Cộng sản nắm được tình hình đó,
cũng có ý kiến chỉ đạo các tổ chức này cần phải thống nhất thành một đảng.
Với uy tín và tinh thần trách nhiệm, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập
đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng tới
1
Hương Cảng, Hồng Kông , tổ chức Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam vào mùa xuân năm 1930. Các văn kiện do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo
như Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng được Hội nghị
thảo luận, thông qua, trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam là một sự kiện lịch sử, một bước ngoặt trong
phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam, chấm dứt sự khủng
hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Sự chủ động của Nguyễn Ái Quốc có ý
nghĩa quyết định đối với sự ra đời của Đảng. Từ đây, cách mạng giải phóng dân
tộc của Việt Nam đã có một chính đảng tiền phong của giai cấp công nhân đi
theo chủ nghĩa Mác-Lênin lãnh đạo.
Thời kỳ thứ ba từ năm 1930 đến năm 1941
Đây là thời kỳ khó khăn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Sau khi thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, do có sự khác biệt về quan điểm tiến hành cách mạng
ở Việt Nam và Đông Dương giữa Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản, nên
Quốc tế Cộng sản đã cử đồng chí Trần Phú về Việt Nam khảo sát tình hình và
viết Luận cương chính trị mới cho Đảng. Những khó khăn chủ yếu của Người
trong thời kỳ này là: Thứ nhất, Hội nghị Trung ương Đảng họp tại Hương Cảng
(10/1930) đã ra Nghị quyết thủ tiêu những văn kiện đã được thông qua tại Hội
nghị hợp nhất thành lập Đảng, tức là không thừa nhận Cương lĩnh chính trị đầu
__________
1. Đông Dương Cộng sản Liên đoàn mới thành lập nên chưa kịp cử đại biểu dự Hội nghị.
257