Page 64 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 64
những tấm gương nghĩa liệt vì nước. Thầy Vương Thúc Quý hằng ngày thắp đèn,
đốt hương trên bàn thờ cha là Vương Thúc Mậu - bậc sĩ phu đã hy sinh trong
phong trào Cần Vương - trước lúc giảng bài để nung nấu lòng yêu nước và căm
thù giặc cho học trò; thầy còn thường luận bàn thời cuộc với các sĩ phu yêu nước.
Khi vào học trường Quốc học Huế, Người được học thầy Lê Văn Miến dạy môn
Hội họa và môn Pháp văn. Thầy có tài, có đức, rất tận tâm với học sinh. Thái độ
của thầy đối với thực dân Pháp rất rõ ràng, khi viên Tổng trưởng Bộ Pháp quốc
hải ngoại đến thăm trường hỏi thầy rằng: “Anh có yêu nước Pháp không?”, thầy
đã trả lời: “Với văn hóa Pháp tôi rất thích, còn việc người Pháp đi xâm lược
nước khác, tôi không chịu”. Quan điểm và thái độ ấy của thầy Lê Văn Miến đã
ảnh hưởng sâu sắc tới suy nghĩ và nhận thức của Người, giúp Người hiểu phải
biết phân biệt giữa cái xấu của chủ nghĩa thực dân Pháp với nền văn minh Pháp
và nền văn hóa phương Tây để biết cái gì cần phải chống và điều gì cần phải học.
Có thể nói, truyền thống gia đình, quê hương đã vun đắp tình yêu nước, thương
dân, đồng cảm với thân phận của người lao động và ảnh hưởng từ những người
thầy đã giúp định hình ở Người những suy nghĩ rất sớm về vấn đề sống còn của
dân tộc và bước đầu hình thành phương pháp hành động. Từ tình yêu đất nước,
nhân dân sâu sắc tới chỗ nung nấu quyết tâm cứu nước là động cơ, mục đích của
hành động lên tàu sang phương Tây tìm đường cứu nước.
Phẩm chất cá nhân là những yếu tố giúp Người xác định được chính xác
hướng đi, phương pháp và cả tâm thế, thái độ trong những bước đầu của hành
trình đi tìm con đường giải phóng
Nguyễn Sinh Cung khi còn là một cậu bé hay Nguyễn Tất Thành khi đã là
một thanh niên có một tư chất thông minh, ưa thích tìm tòi, khám phá, có những
suy nghĩ vượt trước so với những người đồng trang lứa. Trong thời gian ở cùng
gia đình ở Kinh thành Huế, khi được cha dạy học, Người luôn luôn luận ra nhiều
chuyện, đối chiếu với những điều mắt thấy tai nghe trái với đạo lý ở đất kinh kỳ
mà hỏi cha, muốn được cha trả lời và giảng giải cặn kẽ. Khi được đi học với các
thầy giáo, Người hay hỏi những điều ngoài sách vở mà không máy móc theo
kiểu “tầm chương trích cú”. Thầy Vương Thúc Quý khi dạy Người đã nhận xét
rằng người học trò của mình khi đặt vế đối đã thể hiện được ý chí và hoài bão
lớn, không gò bó theo nghĩa đen của từng từ trong vế đối. Tuổi còn nhỏ nhưng
Người sớm quan tâm đến những vấn đề thời cuộc. Người thường chú ý lắng
nghe cha mình, thầy giáo của mình bàn luận cùng bạn bè những việc thế sự khi
có dịp được giúp cha hay thầy giáo mời nước khách đến thăm nhà. Được tiếp
xúc với nền văn minh Pháp và văn minh phương Tây, lòng ham học hỏi của
Người được kích thích bởi Người nhìn ra những mâu thuẫn sâu sắc giữa khẩu
hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” mà người Pháp đã nhân danh khi “khai phá
văn minh” cho phương Đông với những bất công, bạo lực đầy rẫy trong xã hội.
Năm 1923, tại Mátxcơva, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Tạp chí “Ngọn
62