Page 716 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 716

chứng minh khi chúng ta phân tích một cách cụ thể tư tưởng Hồ Chí Minh về
                      dân hay nhân dân.
                            Song, vượt xa các bậc tiền bối Trung Hoa và Việt Nam, Hồ Chí Minh ngay

                      từ khi còn rất trẻ đã tự mình trải nghiệm khắp thế giới, thấm nhuần sâu sắc tư
                      tưởng về quyền con người và dân quyền của nền dân chủ tư sản phương Tây.
                      Người  đã diễn đạt một  cách đầy  sáng tạo tư  tưởng  đó trong lời  mở  đầu  bản
                      Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng đọc trước toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới
                      ngày 2/9/1945: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho
                      họ những quyền không ai có thể xâm  phạm được; trong những quyền ấy,  có
                      quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Lời bất hủ ấy ở
                      trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý
                      nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng
                      có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn nhân quyền
                      và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do
                      và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền

                      lợi”. Tuy nhiên, cũng ngay từ những ngày đầu tiếp xúc trực tiếp với văn minh
                      phương Tây, khi đứng trước tượng nữ thần Tự do của nước Mỹ, Người đã có
                      nhận xét rằng: “Ánh sáng trên đầu thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới
                      chân tượng thần Tự do thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen
                      được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc?
                      Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng  với nam giới?”. Như  vậy,  Hồ Chí
                      Minh đã không nhìn  số  phận con người chỉ qua ánh hào quang tỏa sáng của
                      tượng thần Tự do, hay từ những bản tuyên ngôn nổi tiếng của phương Tây.
                            Có thể nói, ở Hồ Chí Minh, có sự hội tụ những giá trị nhân văn cao cả và
                      tinh hoa tư tưởng của cả phương Đông lẫn phương Tây về con người, về nhân

                      dân. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân, có thể thấy một số nội
                      dung cơ bản sau:
                            2.1. Nhân dân là quý nhất
                            Là người thấm nhuần sâu sắc đạo lý Nho giáo về nhân dân, Hồ Chí Minh
                      nhận định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân”. Cách diễn đạt đó của
                      Người rất gần với quan điểm “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” của
                      Mạnh Tử. Tuy nhiên, trong khi đề cao “Dân”, Mạnh Tử lại đã hạ thấp các đối
                      tượng khác (“Xã tắc”, “Quân”). Hồ Chí Minh không giống với bậc tiền bối Nho
                      gia. Là người biện chứng và rất thực tiễn, Người đề cao “Dân”, coi dân là quý
                      nhất, nhưng không hạ thấp các đối tượng khác. Trên thực tế, đối tượng xã hội nào
                      cũng có vai trò lịch sử nhất định. Đối với một nước nhỏ yếu, đang trong quá đấu
                      tranh giải phóng dân tộc, giải phóng khỏi đói nghèo và lạc hậu thì việc đánh giá

                      đúng vai trò lịch sử của các đối tượng xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi
                      thế, Người từng nói: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng.
                      Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường”.


                                                               714
   711   712   713   714   715   716   717   718   719   720   721