Page 754 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 754
trì sự thống trị lâu dài của người Pháp ở Đông Dương. Do đó, Chính phủ Pháp
đã cử J. Patenôtre đến thương nghị với nhà Nguyễn để ký kết một hiệp ước mới.
Trước sức ép của Pháp, ngày 6/6/1884, Hiệp ước Giáp Thân (còn gọi là Hiệp
ước Patenôtre) với 19 điều khoản đã được ký kết giữa nhà Nguyễn với đại diện
của Chính phủ Pháp là J. Patenôtre. Và “Theo Hiệp ước này, nước Việt Nam
thừa nhận sự bảo hộ của nước Pháp, Pháp là nước sẽ thay mặt Việt Nam trong
mọi việc giao thiệp với ngoại quốc và bảo hộ người Việt Nam ở nước ngoài; các
tỉnh nằm trong giới hạn từ giáp Nam Kỳ đến giáp Ninh Bình, các quan lại triều
đình sẽ tiếp tục cai trị như cũ, trừ các việc thương chính, công chính cùng các
1
việc cần có chủ trương nhất trí, hay cần có kỹ sư Pháp hay người châu Âu giúp” .
Việc ký kết Hiệp ước Giáp Thân đã làm dấy lên một phong trào đấu tranh phản
kháng mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam nhằm phản đối thái độ đớn hèn của nhà
Nguyễn, chống lại hành vi xâm lược của thực dân Pháp. Các cuộc khởi nghĩa
bùng phát ở khắp nơi nhằm chống lại cả nhà Nguyễn và thực dân Pháp. Phong
trào Cần Vương đã được vua Hàm Nghi - một vị vua có tinh thần yêu nước của
nhà Nguyễn - cùng với Tôn Thất Thuyết phát động để kháng Pháp. Hưởng ứng
phong trào này, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn đã bùng nổ như: Khởi nghĩa
của Ngô Quang Bích ở Hưng Hóa (Phú Thọ) và lan rộng ra vùng Tây Bắc; Khởi
nghĩa Bãi Sậy của Đinh Gia Quế, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thiện Kế,
Nguyễn Đức Hiệu (Đốc Tít) ở vùng châu thổ Bắc Kỳ và Đông Bắc; Khởi nghĩa
Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng, khởi nghĩa của Cầm Bá Thước ở
Thanh Hóa; Khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng; Khởi
nghĩa Trần Văn Dư ở Quảng Nam; Khởi nghĩa của Lê Trung Đình ở Quảng
Ngãi; Khởi nghĩa của Đào Doãn Dịch, Mai Xuân Thưởng, Bùi Điền,… ở Bình
Định; Khởi nghĩa của Lê Thành Phương, Võ Trứ, Trần Cao Vân ở Phú Yên;…
Song, cuối cùng thì các cuộc khởi nghĩa nằm trong phong trào Cần Vương đều
bị thực dân Pháp đàn áp đẫm máu. Cùng với đó, một số cuộc khởi nghĩa khác,
giương cờ “chống cả Triều lẫn Tây” như cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng
Hoa Thám lãnh đạo cũng dần đi vào bế tắc và thất bại.
Đứng trước thất bại của các cuộc khởi nghĩa đó, các sĩ phu Nho học yêu
nước cấp tiến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX của Việt Nam đã tự kiểm điểm lại
và họ cho rằng nguyên nhân của sự thất bại là do sự lỗi thời của ý thức hệ Nho
giáo. Họ cho rằng: “Chữ nho quả là một cái hàng rào hiểm chắn ngang đường
văn minh, làm cho kẻ đi học mỏi lưng, tốn cơm gạo mới dùng được chữ. Khi
dùng được chữ thì trán đã nhăn, lưng đã còng: vì nỗi dùi mài một đời học các
điều cao xa quá. Chữ thẩm, chữ hại, làm cho ai mó đến thì phải quên cả việc
2
thường đời nay, để học việc đời xưa, đời xưa thực chết rồi! Thực xa rồi!” . Phan
__________
1. Võ Kim Cương (chủ biên), Lịch sử Việt Nam, Sđd, tr. 217.
2. Đăng cổ tùng báo, số ra ngày 28/3/1907, tr. 2.
752