Page 126 - http://tvs.vsl.vn/trienlam
P. 126
1
thông qua tục ngữ . Phải thừa nhận rằng tục ngữ tuân theo chủ nghĩa nhân đạo xuất phát từ quan
hay nói đến tiền bạc nhưng tiền bạc ở đây chỉ là niệm sâu rễ, bền gốc, quan niệm phúc, đức... Nếu
một biểu hiện của ứng xử mà thôi. Điều này hoàn không lý giải như thế, làm sao có thể giải thích
toàn được minh chứng qua cách sử dụng tiền bạc được sự tồn tại của các câu tục ngữ: "người ta là
của người Việt trong các buổi lễ lạt, đám cưới, hoa của đất; người sống đống vàng; người làm ra
đám ma, các ngày vui, Yến lão v.v... Tục ngữ nói của, của không làm ra người; bà con vì tổ vì tiên,
đến tiền bạc như một cái gì xấu xa, một sự biểu không phải vì tiền vì gạo". Những câu tục ngữ
hiện của nhân tình thế thái đồng thời có ngụ ý mang một quan niệm nhân thế bi quan của người
phê phán rõ rệt. Ví dụ: Mạnh vì gạo, bạo vì tiền; Việt chính là biểu hiện của sự ứng xử mang tính
Nén bạc đâm toạc tờ giấy; Có tiền mua tiên cũng thực tiễn. Một mặt, nó biểu hiện nhân tình thế
được; Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn, v.v.. thái, có ngụ ý phê phán rõ rệt; mặt khác, nó dạy
Tục ngữ cũng nói đến sự xấu xa trong tính con người ta liệu bề mà xử thế.
cách con người khi ứng xử trong cộng đồng. Ví dụ: Nhìn chung, có thể thấy sự ứng xử của người
Bè ai nấy chống, khi vui thì vỗ tay vào; bé xé ra Việt rất linh hoạt: từ cách chào hỏi, xử thế đến
to; đâm bị thóc, chọc bị gạo; đèn nhà ai nhà nấy cách nhìn nhận vấn đề trong trạng thái động,
biện chứng.
rạng; đỉa bám chân ai người nấy gỡ; cháy nhà
Ví dụ: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Gần mực
hàng xóm bình chân như vại; tham bát bỏ mâm;
thì đen, gần đèn thì rạng; Đói ăn vụng, túng làm
bắt cá hai tay; không ăn thì đạp đổ, v.v.. Có thể
càn; Cùng quá, hóa liều, v.v..
thấy đây như là một quan niệm nhân thế bi quan,
Xuất phát từ cách nhìn nhận ấy mà phương
tiêu cực, thờ ơ, ích kỷ, khuyên người ta hoài nghi,
châm xử thế của họ có tình có nghĩa, lấy cái thiện
cảnh giác với tất cả mọi người hay không? Thông
làm gốc. Cái thiện này không phải chỉ xuất phát
qua văn học thành văn và bất thành văn qua các
từ quan niệm về điều thiện của đạo Phật mà từ
lễ tục, hội làng..., có thể thấy trong ứng xử, người quan niệm phúc đức, do cuộc sống ở một xã hội
Việt rất coi trọng giá trị con người và bao giờ cũng tiểu nông, phải chịu rất nhiều biến động của lịch
sử tạo nên. Người Việt cho rằng "cứu được một
___________
người phúc đẳng hà sa"; "dĩ đức báo oán" (lấy đức
1. Xem Đỗ Minh Tuấn: Những đặc điểm trong
phương thức ứng xử của người Việt qua tục ngữ, Tạp mà xử với kẻ xấu) và phê phán những kẻ "bất cận
chí Sưu tầm dân tộc học, 1981. nhân tình"; "qua cầu rút ván".
123 124